Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Tầm quan trọng của Bí tích và Á bí tích trong đời sống người tín hữu


Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao tính tiêu thụ và thực dụng. Chính vì vậy người kitô hữu, nhất là giới trẻ đang ngày càng thờ ơ với đời sống đức tin. Việc cử hành phụng vụ và các bí tích dường như chẳng còn ý nghĩa gì đối với họ. Trong hoàn cảnh đó, thiết nghĩ việc giúp các bạn trẻ khám phá lại chiều kích thiêng liêng cũng như tầm quan trọng của các cử hành bí tích và á bí tích là hết sức cần thiết. Nhưng trước hết cần tìm hiểu và phân biệt lại giữa bí tích và á bí tích.

1         Bí tích và á bí tích

1.1                      Định nghĩa

Theo sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo: “Các bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng do Chúa Kitô thiết lập và uỷ thác cho Hội thánh. Qua bí tích, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống thần linh. Các nghi thức hữu hình dùng để cử hành bí tích, biểu thị và thực hiện ân sủng riêng của từng bí tích. Các bí tích sinh hiệu qủa nơi những người lãnh nhận hội đủ điều kiện” (số 1131). Như thế có thể hiểu cách đơn giản rằng: Bí tích là dấu chỉ bề ngoài, chuyển thông ơn cứu độ bên trong.
Còn Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh thì đưa ra định nghĩa về á bí tích như sau: “Giáo Hội Mẹ Thánh còn thiết lập những á bí tích. Đó là những dấu chỉ thánh, vì một phần nào phỏng theo những bí tích, nhờ đó biểu trưng những hiệu quả - nhất là những hiệu quả thiêng liêng - và thông ban hiệu quả đó nhờ sự bầu cử của Hội Thánh. Nhờ các á bí tích, con người được chuẩn bị lãnh nhận hiệu quả chính yếu của các bí tích và thánh hóa những hoàn cảnh khác biệt trong cuộc sống” (SC 60).

1.2                      Phân biệt

Như thế, các bí tích là do chính Chúa Kitô thiết lập và chỉ có đúng 7 bí tích mà thôi. Qua các bí tích ta nhận được sự sống thần linh, tức là chính ơn Chúa Thánh Thần. Trong khi đó, các á bí tích là do Hội thánh thiết lập và có nhiều loại khác nhau. Các á bí tích không ban ơn Chúa Thánh Thần nhưng chuẩn bị tâm hồn để tín hữu đón nhận và cộng tác với ân sủng đồng thời thánh hoá các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống.

2         Tầm quan trọng việc cử hành bí tích và á bí tích

2.1                      Là nhu cầu không thể thiếu

Bí tích là dấu chỉ hữu hình để diễn tả và chuyển thông ân sủng vô hình cho con người, vì chính Đức Giêsu hành động trong bí tích nhờ Thánh Thần của Ngài (Xc. SC 7). Chính vì thế công đồng Trento khẳng định: để được ơn cứu độ người Kitô hữu cần đến các bí tích của Giao Ước mới. Bởi qua các bí tích, Ân sủng bí tích là ơn Chúa Thánh Thần chữa lành và biến đổi người lãnh nhận, làm cho họ nên con cái Thiên Chúa, giúp họ được kết hợp với Đấng Cứu Độ, và được tham dự vào sự sống của chính Thiên Chúa (Xc. GLHTCG 1129).
Thực vậy, Đức Giêsu đến mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha. Qua cái chết và cuộc Phục sinh, Ngài đã thông ban cho ta sự sống thần linh và mở ra cho con người cánh cửa bước vào sự sống vĩnh cửu. Hơn nữa, trong cuộc đời dương thế Đức Giêsu đã từng chữa lành bệnh tật, xoa dịu khổ đau, thứ tha tội lỗi cho con người thì nay Ngài vẫn tiếp tục ở với chúng ta qua các bí tích. Chính vì vậy bí tích là những tác động của Chúa Kitô hiện tại hóa công việc cứu chuộc của Ngài để áp dụng hiệu quả của nó cho các linh hồn. Bởi lòng thương yêu lạ lùng, Đức Kitô đã chịu treo trên thập giá và từ cạnh sườn bị đâm thâu, Người đã đổ máu và nước ra, từ đó phát sinh các Bí tích của Hội thánh. Như thế, chính bởi lòng yêu thương vô ngần của Thiên Chúa, mà Đức Giêsu Kitô đã thiết lập các bí tích để hết thảy những ai tin nhận thì đều được hưởng ơn cứu độ từ nguồn Bí tích đó. Ngày nay, mỗi khi cử hành các bí tích, chúng ta không chỉ tưởng niệm lại một biến cố đã diễn ra trong quá khứ nhưng là hiện tại hoá hành động yêu thương đó của Thiên Chúa.
Thánh lễ và việc cử hành các bí tích là đỉnh cao của đời sống người kitô hữu. Các bí tích được ví như là máng thông ơn qua đó chúng ta lãnh nhận ơn Chúa thánh Thần như nguồn sức sống thần linh cho linh hồn. Chính vì thế việc tham dự và lãnh nhận các bí tích là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống người kitô hữu. Các bí tích được sắp xếp để người tín hữu có thể lãnh nhận trong suốt cuộc đời, nhất là trong những biến cố quan trọng của cuộc sống. Có thể nói các bí tích và á bí tích như là nguồn lương thực nuôi dưỡng và là các phương thế để thánh hoá cuộc đời người tín hữu.

2.2                      Là lương thực nuôi dưỡng

Bảy bí tích trải dọc cuộc đời con người và thánh hoá những thời điểm quan trọng nhất: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, lìa đời, v.v.. Với các bí tích khai tâm người Kitô hữu được kiện toàn trong đức tin, gia tăng trong đức cậy và lớn mạnh trong đức mến. Các bí tích còn chữa lành những thương tích thiêng liêng trong linh hồn, hơn nữa còn góp phần thăng tiến cộng đoàn. Như thế có một sự tương tự nào đó giữa những chặng đường trong đời sống tự nhiên và trong đời sống siêu nhiên. (x. Th. Toma Aq., S.Th. 3,65,1).
Giai đoạn đầu đời
Giai đoạn đầu đời con người được sinh ra, được chăm sóc nhờ bàn tay yêu thương của mọi người đề từ đó dần dần tạo nên căn tính xác định cho mình. Dấu ấn đầu tiên chính là bí tích Rửa Tội. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta trở thành một thành viên trong gia đình Giáo hội. Như thế ta được mời gọi liên kết với các thành viên khác bằng mối dây của bác ái và ân sủng. Mỗi thành viên được ví như một chi thể trong một thân thể. Và như thế, mọi chi thể đều được nuôi dưỡng bằng một nguồn sự sống đang lưu chuyển trong thân thể ấy. Bí tích Thánh Thể cho ta thấy mối day liên kết này cách rõ nét nhất.
Sự sống tự nhiên cần bánh ăn nuôi dưỡng thế nào thì đời sống siêu nhiên cũng cần lương thực nuôi sống như vậy. Chính vì thế qua bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ nhận được tấm bánh của sự sống vĩnh cửu để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng. Cũng trong bí tích Thánh Thể, các chi thể của Hội thánh cùng chia sẻ và cùng được nuôi dưỡng bởi một tấm bánh duy nhất là thân mình Đức Giêsu kitô. Bí tích thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn trên hành trình dương thế này trong khi chờ đợi ngày chúng ta được kết hiệp trọn vẹn với Đức Kitô trên Thiên Quốc.
Khi mới được tái sinh, người tín hữu còn cần sự bao bộc, nâng đỡ của cộng đoàn nhưng họ không thể cậy dựa vào cộng đoàn mãi. Đến một lúc nào đó tự bản thân họ cần phải đứng lên, ra đi trên chính đôi chân của mình. Hơn nữa họ còn phải thi hành sứ vụ chứng tá của mình. Để giúp đạt được điều đó chúng ta có bí tích Thêm Sức. Nhờ bí tích này, người tín hữu lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách đặc biệt để nên hoàn trọn hơn trong đời sống cũng như làm chứng cho sự sống mới đã lãnh nhận qua bí tích Rửa Tội. Đó là ba bí tích quan trọng hơn cả trong việc kiến tạo nên căn tính của người kitô hữu. Ngoài hai bí tích này, chúng ta Chuùaần khoângể đến hai bí tích được xem như là phương dược chữa lành linh hồn người tín hữu. đó là bí tích Hoà Giải và Xức Dầu Bệnh Nhân.
Hai phương thuốc chữa lành
Ngoài việc xác lập một căn tính rõ ràng, đời sống chúng ta đôi khi gặp những thử thách khó khăn, khô khan nguội lạnh hay thậm chí là những “vết thương” nơi linh hồn. Vậy để được sống cách sung mãn chúng ta cần chữa lành những “vết thương” đó. Vì thế bí tích Hoà Giải sẽ giúp ta giao hoà với Thiên Chúa và nối lại tương quan với tha nhân. Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân sẽ giúp người bệnh vững tin vào tình thương của Thiên Chúa nhờ đó vượt qua những yếu đuối của phận người. Chính vì thế đây cũng là hai bí tích quan trọng để nâng đỡ người tín hữu trong cuộc lữ hành đức tin của mình.
Thăng tiến xã hội
Bên cạnh những gì liên quan đến đời sống cá nhân, con người còn sống trong xã hội và do đó cần có tương quan, có tổ chức và xã hội cần phát triển không ngừng. Một cách nào đó hai bí tích cuối cần thiết để thực hiện các chức năng này. Bí tích Truyền Chức Thánh sẽ giúp Giáo hội có những người kế vị tông đồ Phêrô cũng như những cộng sự viên của các ngài để thi hành ba chức năng giảng dạy, thánh hoá và quản trị. Bí tích Hôn Phối là nơi nuôi dưỡng tình yêu và làm phát sinh sự sống. Chính qua bí tích này Đức Kitô thánh hoá tình yêu phu phụ và nhờ đó Hội thánh ngày càng được phát triển lan rộng.
Bên cạnh các bí tích, các á bí tích cũng rất cần thiết cho đời sống chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi nên thánh mỗi ngày. Các á bí tích sẽ giúp ta trong việc đón nhận ơn thánh cũng như giúp thánh hoá hầu hết các biến cố trong cuộc đời. Đồng thời các á bí tích còn thánh hoá các đồ vật ta sử dụng với mục đích thánh hoá con người và ca tụng Thiên Chúa.

2.3                      Là phương tiện thánh hoá

Hiến chế Phụng vụ nói rõ: phụng vụ các bí tích và á bí tích giúp các tín hữu chuẩn bị chu đáo để hầu hết mọi biến cố trong đời sống sẽ được thánh hóa nhờ thánh ân xuất phát từ mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô chịu thương khó, chịu chết và sống lại, vì Người là nguồn mạch ban năng lực cho tất cả các bí tích và á bí tích. Hầu như không có việc sử dụng của cải vật chất một cách chính đáng nào lại không đưa tới mục đích thánh hóa con người và ca khen Thiên Chúa (Xc. SC 61). Như thế bí tích và á bí tích chính là những phương thế để giúp thánh hoá bản thân và nhờ đó người kitô hữu thánh hoá thế giới nhờ sự hiện diện của mình.
Qua việc thánh hoá bản thân và thế giới, các bí tích còn giúp xây dựng thân thể Chúa Kitô qua việc cử hành như là hành vi thờ phượng đích thực.

2.4                      Là hành vi thờ phượng đích thực

Việc cử hành các bí tích và á bí tích còn là hành vi thờ phượng đích thực của người tín hữu. Qua đó ta công nhận và cao rao những hồng ân của Thiên Chúa, tuyên dương sự cao cả và tình thương vô biên của Ngài. Cử hành bí tích là tạ ơn về tất cả những gì Ngài đã và còn đang làm để cứu độ chúng ta. Tắt một lời, khi cử hành bí tích là ta thờ phượng Thiên Chúa như Ngài đáng được thờ phượng.
Vì coi bí tích là những hành động phụng tự qua đó ta tôn thờ Chúa một cách trọn hảo và xứng đáng, chúng ta sẽ không còn coi việc cử hành bí tích như là một việc chỉ liên hệ tới những người nhận lãnh, nhưng sẽ ý thức được đó là việc phụng thờ của toàn thể Giáo Hội. Việc tham dự không chỉ với mục đích duy nhất là cầu nguyện cho những người nhận lãnh bí tích, nhưng để tôn thờ và ca vinh Thiên Chúa cũng như để thánh hóa chính bản thân mình. Vì như Công đồng đã nói, bí tích không những giả thiết đức tin mà còn nuôi dưỡng đức tin nữa; không những chỉ ban ơn, nhưng còn giữ vai trò giáo huấn nữa (Xc. SC 59).
Ngoài những tầm quan trọng đã nêu ở trên, việc cử hành các bí tích còn hướng chúng ta đến sự sống vĩnh cửu trên Thiên Quốc. Quả thật, ơn cứu độ của chúng ta chỉ được hoàn tất trong ngày cánh chung, khi chúng ta đã được kết hợp với Thiên Chúa cách trọn vẹn. Vì thế khi tham dự việc cử hành các bí tích nói riêng và cử hành Phụng vụ nói chung, “chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa: trong khi kính nhớ các Thánh, chúng ta hy vọng được thông phần và đoàn tụ với các Ngài; chúng ta mong đợi Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, cho đến khi chính Người là sự sống chúng ta sẽ xuất hiện và chúng ta cũng sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang” (SC 8). Giáo lý Hội thánh Công giáo số 1130 cũng dạy rằng: Trong các bí tích của Chúa Kitô, Hội Thánh nhận được bảo chứng gia nghiệp của Người, đã dự phần vào đời sống vĩnh cửu, đang khi “chờ đợi ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu là Thiên Chúa vĩ  đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2,13). Như thế chính qua việc cử hành các bí tích ta đã thông hiệp vào sự sống vĩnh cửu trên Thiên quốc. Các bí tích là lương thực, là của ăn đàng để trợ lực cho ta trên con đường hướng về sự sống vĩnh cửu.
Kết luận
Tóm lại, các bí tích biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa. Do đó, việc tham gia các cử hành bí tích giữ một vai trò quan trọng trong đời sống người tín hữu. Các bí tích ban ơn thánh hoá để giữ gìn và nuôi dưỡng, giúp chúng ta đi trọn hành trình dương thế để tiến về vương quốc vĩnh cửu, nơi ta sẽ được kết hợp trọn vẹn với Đấng hằng yêu mến chúng ta. Các bí tích còn là nơi ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa, qua đó ta biểu lộ các tâm tình chúc tụng, tạ ơn và thờ phượng. Đây vừa là bổn phận vừa là niềm vinh dự cho chúng ta. Như thế các bí tích và á bí tích không chỉ thực sự cần thiết cho đời sống mỗi người mà qua đó ta còn góp phần xây dựng thân thể Giáo hội mà Chúa Kitô chính là đầu của Thân thể Mầu nhiệm đó.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét