1.
Giới thiệu chung
Bệnh tật và cái
chết luôn gắn liền với cuộc sống của con người. Con người luôn tìm cách né
tránh nhưng không thể tránh khỏi. Từ đó con người đánh đón nhận và tìm cho nó một
ý nghĩa. Người Do thái, dân tộc được Chúa tuyển chọn và luôn quy hướng về Chúa
trong mọi biến cố của cuộc sống, cũng đi tìm cho mình lời giải đáp. Với ý thức
tôn giáo của mình, dĩ nhiên, họ không thể tách rời bệnh tật và sự chết ra khỏi
tôn giáo. Giữa chúng luôn có một mối tương quan khắng khít. Đâu là mối tương
quan giữa bệnh tật và cái chết với tội lỗi? Cuộc sống sau cái chết như thế nào?
Con người phải có thái độ như thế nào? Những câu hỏi này được các tác giả Kinh
thánh đặt ra và tìm lời giải đáp. Đặc biệt là trong các Thánh vịnh. Tuy nhiên,
trước khi tìm hiểu kỹ vấn đề trong các Thánh vịnh, chúng ta cần tìm hiểu sơ qua
những quan niệm của người Do thái về một số vấn đề liên quan. Trước hết là mối
tương quan giữa bệnh tật và tội lỗi.
a.
Tương quan giữa bệnh tật và tội lỗi theo quan niệm Do
Thái
Trong một thế
giới mà tất cả đều tùy thuộc vào Thiên Chúa như là nguyên nhân, thì bệnh tật
cũng không tránh khỏi quy luật này. Trong bệnh tật người ta có thể dễ dàng nhìn
thấy hành động của Thiên Chúa đánh phạt con người (Xin Ngài thôi đừng đánh con nữa/tay Ngài giáng xuống, thân này nát tan_Tv
39,11). Theo khuynh hướng tự nhiên, cảm quan tôn giáo của con người thiết lập
mối tương quan giữa bệnh tật với tội lỗi. Mặc khải kinh thánh không chối bỏ
quan điểm này nhưng xác nhận bệnh tật chỉ đi vào trong thế gian như hậu quả của
tội lỗi (x. St 3,16-19). Nó là một trong những dấu chỉ sự giận dữ của Thiên
Chúa trước thế gian tội lỗi. Thế nên, kinh nghiệm về bệnh tật phải đưa đến kết
quả là gợi lên trong con người ý thức về tội lỗi. Thực vậy, trong các thánh vịnh
cầu khẩn, lời van xin chữa lành luôn kèm theo sự thú nhận các lỗi lầm (Tv 38,
2-6). Cụ thể nhất cho mối liên hệ này là bệnh phong cùi. Đây được coi là hình
phạt Chúa dùng để trừng phạt người tội lỗi. Do vậy, trên nguyên tắc, bệnh phong
cùi chính là dấu chỉ của tội lỗi.
Thế còn những
người công chính thì sao? Bệnh tật của họ có liên hệ gì với tội lỗi hay không?
Câu trả lời của Cựu ước là nếu người công chính bị bệnh tật thì đó là một thử
thách lòng trung tín của họ (ông Gióp, Tobit).
Chính vì quan
niệm về bệnh tật và tội lỗi như thế nên bệnh nhân trước hết phải kêu cầu Thiên
Chúa vì Người là danh y tuyệt hảo. Do đó, bệnh nhân phải đến gặp các thầy tư tế
và các ngôn sứ để khiêm nhường xưng thú tội lỗi đồng thời xin ơn được chữa
lành.
b.
Quan niệm của người Do thái về cái chết
Đối với người
Do thái, người chết không còn nữa, nhưng chết không phải là hoàn toàn bị hủy diệt.
Tuy thân xác được đặt vào trong lòng đất nhưng một cái gì đó của người quá cố,
một bóng hình vẫn còn tồn tại trong Sêol. Người ta quan niệm âm phủ (Sêol) như
một vực thẳm, một cái giếng sâu, một chốn cô quạnh (Tv 115,17), một nơi hư
vong, tối tăm, quên lãng (Tv 88,12). Tất cả những người quá cố đều được tập
trung vào nơi đó để cùng chịu một số phận đau khổ như nhau, tuy có nhiều loại cực
hình khác nhau. Sự hiện diện của họ chỉ còn là một giấc ngủ (Tv 13,4), họ không
còn hy vọng, không còn biết Thiên Chúa, không còn ca ngợi Thiên Chúa nữa (Tv
6,6). Một khi bước vào Sêol thì họ không còn trở ra được nữa, chính Thiên Chúa
cũng quên họ. Đó là một viễn tượng đau lòng mà sự chết mở rộng cho con người.
Đó là định mệnh chung của tất cả mọi người.
Vì âm hưởng bi
thảm của cái chết là như thế nên nó không thể đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa không
dựng nên con người để hư nát, để chết, nhưng cũng như bệnh tật, cái chết chỉ du
nhập vào trần gian vì tội lỗi. Thế nhưng, làm thế nào để giải thích cái chết của
người công chính? Ý thức thân phận tội lỗi của mình, con người tin rằng chỉ có
Thiên Chúa mới cứu được con người khỏi chết. Vì thế khi sắp chết, con người hết
lòng kêu cầu lên Chúa với hy vọng Người sẽ không bỏ rơi họ (Tv 16,10). Với niềm hy vọng và tin tưởng này, họ hoán cải
cuộc sống để được Thiên Chúa giải thoát khỏi cái chết. Đó chính là khởi điểm của
niềm hy vọng mà sau này sẽ nảy nở trong viễn tượng bất tử. [2]
c.
Bệnh tật và sự chết trong thánh vịnh
Các Thánh vịnh
cho ta hiểu suy nghĩ và thái độ con người thời Cựu ước đối với bệnh tật. Bệnh tật
do Thiên Chúa gởi đến, nên cũng chỉ chờ đợi sự chữa lành từ nơi Người. Các
Thánh vịnh giải thích lý do Chúa gởi tật bệnh, thường là hình phạt do tội (Tv
38,4; 41,5). Đây là quan niệm cổ truyền được các thù địch của các tác giả Thánh
vịnh khai thác để đối kháng. Trong các Thánh Vịnh, người kêu cầu hay nói về mình như là
một bệnh nhân. Vì thế, chúng ta phải coi bệnh tật như là một trong những dữ
kiện chính yếu của lời nguyện Thánh Vịnh.
Đa số các thánh
vịnh được viết trước sách Khôn ngoan và Ma-ca-bê nên quan niệm về cái chết còn
nhiều hạn chế. Cho đến nửa sau thế kỷ II trước công nguyên, thần học Do thái vẫn
chưa có một quan niệm rõ ràng và đầy đủ về "cuộc sống bên kia". Trong
các thánh vịnh sự chết được đồng hóa với biển, vực thẳm (Tv 18, 5), chỗ sình lầy,
loài thủy quái (Tv 69. 15-16). Sự chết được nhân cách hóa qua ý muốn của Tử Thần.
Bệnh tật và cái
chết là chủ đề nằm rãi rác trong các thể loại Thánh vịnh ai ca (cá nhân, tập thể),
tạ ơn, giáo huấn, hỗn hợp. Khi tìm hiểu kỳ chủ đề này, ta sẽ thấy nó có nội
dung chính với các yếu tố như sau: Kêu cầu, nêu hoàn cảnh, những lý do Thiên
Chúa cứu nguy, sự tin tưởng và tạ ơn.
Thực vậy, trong cơn
khốn khổ, lời kêu van của tác giả nhắc đến sự tốt lành quảng đại của Chúa đối
với những ai van xin Người. Lời than thở bộc bạch những nhu cầu với những tình
tiết, giải bày nỗi lo âu trước những hiểm nguy đang đe dọa và thú nhận sự yếu
đuối bất lực của mình. Tác giả cầu khẩn Chúa hãy lắng nghe, hãy thức dậy, hãy
ghé mắt thương đến cứu giúp, bảo vệ, chở che.... Tác giả Thánh vịnh viện dẫn
những lý do đảm bảo cho lời cầu được Chúa nhận lời: Chúa xót thương, nhân hậu,
công bằng... Chúa là Đấng cứu độ, là sức mạnh... ngoài ra tác giả còn diễn tả
lòng tín thác vào Chúa và dâng lời ca tụng tạ ơn sự chữa lành và giải thoát của
Người.
2.
Phân tích các nội dung chính
a.
Kêu cầu
Vì quan niệm bệnh
tật có liên hệ với tội lỗi, điều đó cũng có nghĩa là bệnh nhân đã xúc phạm đến
Chúa và khiến Ngài nổi giận. Do vậy, các bệnh nhân thường dâng lời khẩn khoản
nài xin Thiên Chúa một cách thống thiết để mong Ngài mau ra tay cứu giúp và chữa
lành.
Cầu xin giải
thoát khỏi bệnh tật và cái chết gần như là một điệp khúc của các thánh vịnh. Vì
nghĩ rằng tương quan của con người với Thiên Chúa sẽ chấm dứt sau cái chết nên
những lời khóc than, kêu cầu, kể lễ, tin tưởng và ca tụng xuất hiện trong nhiều
thành vịnh. Qua những lời kêu cầu này, tác giả xin Chúa mau tỉnh giấc, đến,
nghe, giúp, che chở, và cứu chữa tác giả.
Trong cơn đau đớn
của bệnh tật, tác giả kêu xin lên Chúa suốt ngày: Lạy Chúa, suốt cả ngày con kêu lên Chúa/và giơ tay hướng thẳng về Ngài
(Tv 88,10). Có lẽ tác giả đang bị bệnh phong cùi vì mọi người đều gạt bỏ xa
lánh. Tác giả xin Thiên Chúa can thiệp trước khi bị xuống âm phủ vì khi đó thì
đã quá muộn. Thực vậy, ý thức tình trạng hệnh tật của mình, ý thức sự sống đang
tan biến dần, tác giả thổn thức và rên siết hàng đêm: Rên siết đã nhiều, nên con mệt mỏi/trên giường ngủ, những
thổn thức năm canh/từng giọt vắn dài, lệ tuôn đẫm gối (Tv 6, 7).
Qua các lời kêu xin của người bệnh trong các Thánh Vịnh,
thường ta không phân biệt được những mức độ nghiêm trọng của căn bệnh, bởi vì
đối với họ, mọi bệnh tật, dù nặng hay nhẹ, đều cho thấy bộ mặt của chính sự
chết ở mức độ tuyệt đối.
b.
Hoàn cảnh
Dường như để lời
cầu xin của mình được Thiên Chúa mau nhận lời, tác giả thường kể lễ về hoàn cảnh
của mình, đó là một hoàn cảnh thật bi đát và đáng thương. Ta có thể phân biệt
thành hai hoàn cảnh, hoàn cảnh thể xác và hoàn cảnh tinh thần.
Hoàn cảnh thể
xác: Chẳng hạn ở các Thánh vịnh 38, 88 và 102, tác giả than van kể khổ để nhẹ bớt
nổi lòng cũng như để Chúa động lòng thương. Tác giả than van về các vết thương,
các khổ đau trong thân xác: da thịt không chỗ nào lành, vết thương nặng mùi rửa
nát, tim hồi hộp, mắt mờ, da bọc xương… đau đớn. Bệnh tật làm cho tác giả ngày
không ăn, đêm không ngủ đến độ chỉ còn da bọc xương. Tác giả cảm thấy mình bị
kiệt sức, chẳng còn làm được chi.
Qua các lời
than van của các bệnh nhân, chúng ta có thể kể ra đây những tình trạng của căn
bệnh. Trước hết là người nóng như lửa. bệnh nhân cảm thấy “cổ họng khô ran như
ngói” hơn nữa lưỡi với hàm thì “dính lại cùng nhau” (Tv 22,16). Ngoài ra, bệnh
nhân còn cảm nhận được xương tủy mình “nóng ran như hỏa lò” (Tv 102, 4).
Triệu chứng thứ
hai là gân cốt rã rời. Từ ngữ “xương cốt” cũng đồng nghĩa với “sức lực”, hay một
cách đơn giản, đồng nghĩa với “khả năng đứng vững được”. Vì thế, câu nói “gân cốt
rã rời” thường diễn tả tình trạng đuối sức,“Gân cốt con rời rã” tương đương với
“sức lực con cạn kiệt” và “tháng năm tàn lụi” (Tv 31, 11).
Triệu chứng thứ
ba là đôi mắt mòn mỏi. Bệnh tật và sầu khổ làm phương hại đến đôi mắt, và đây
là một trong những nét đánh động nhất và mang nhiều ý nghĩa nhất: Quá sầu đau, mắt đà mòn mỏi/hồn ảo não và
thân hình tiều tuỵ (Tv 31, 10). Mắt
bị mòn mỏi và mờ đi, điều này có nghĩa là mất đi niềm vui chiêm ngưỡng ánh sáng
mà Thiên Chúa đã tạo dựng. Nó cũng đồng nghĩa với cái chết. Sự toàn vẹn của đôi
mắt mang ý nghĩa sự toàn vẹn của sự sống.
Hoàn cảnh tinh
thần: Bên cạnh nỗi đau thể xác, bệnh nhân còn cảm thấy mình nên trò cười cho
thiên hạ. Cả hàng xóm láng giềng lẫn bạn bè thân thích đều kinh hãi và tránh
xa. Bệnh nhân thấy mình như một món đồ bị hư và bị vất bỏ, chẳng còn ai chớ đến.
Đau đớn hơn, mọi người còn buông những lời độc địa, toa rập với nhau để chống lại
bệnh nhân (Tv 31,12-14). Như vậy, tâm hồn tác giả tràn ngập đau khổ vì thấy mạng
sống mình đã gần kề âm phủ. Khi đó, tác giả hình dung mình nằm trong mồ mả như
bao tử thi khác và đã bị Chúa quên đi, không còn được Ngài săn sóc nữa. Tác giả
tưởng như cơn giận Chúa đang đè nặng thân mình.
Kinh nghiệm cho thấy rằng tình cảnh bị bỏ rơi có khả năng
giết chết người ta còn hơn là bệnh tật. Tuy nhiên, các Thánh vịnh còn đi xa hơn
cả sự cô đơn chết người, vì các Thánh vịnh còn nói đến sự ruồng bỏ. Thật vậy,
trong Thánh vịnh, những tai họa luôn luôn có khuynh hướng hội tụ lại: người bị
tố cáo phải ra tòa gần như luôn là người bệnh; và người bệnh gần như luôn là
người bị tố cáo (x. Tv 6). Do vậy, bệnh nhân thường cũng là nạn nhân. Họ không
chỉ đau khổ vì bị thương tổn, nhưng còn vì bị người khác bỏ rơi, bị ruồng bỏ,
bị săn đuổi và thậm chí bị tố cáo, bị lên án, bị thù ghét. Chẳng hạn trong Tv
6, tác giả thốt lên lời nguyện: “Lạy Đức Chúa, xin chữa lành con” (v.
3), đó là lời cầu nguyện của một bệnh nhân; thế nhưng cũng chính bệnh nhân này
lại mơ ước có ngày kẻ thù của mình sẽ thối lui!
Trong Tv 38, sau khi mô tả rất chi tiết về bệnh tật của
mình, bệnh nhân còn nói mình bị bạn bè bỏ rơi, và bị tố cáo bởi kẻ xấu. Hay người
bị bệnh “liệt giường liệt chiếu” (Tv 41, 4) kêu lên: « Lạy Chúa,
xin thương xót và chữa lành con » (c. 5), không chỉ bị kẻ thù lên án
mà còn bị bạn bè phản bội (c. 6-10).
c.
Lý do
Sau khi trình
bày hoàn cảnh của mình, tác giả Thánh vịnh đưa ra những lý do để được Chúa cứu
chữa. Lý do thường xuyên mà tác giả đưa ra là nếu tác giả chết và vào chốn âm
ty thì ai sẽ nhớ đến và ca ngợi tình thương của Chúa, ai sẽ tán dương lòng
thành tín của Ngài, những kỳ công Chúa ai sẽ tán dương, đức công chính của Ngài
ai sẽ ca ngợi? Do đó Chúa chẳng được lợi ích gì nếu tác giả phải chết (Tv
30,10; 88, 12-13).
Một lý do nữa
mà tác giả đã đưa ra, đó là hành động của Thiên Chúa trong quá khứ. Có lẽ tác
giả nhớ lại lịch sử của dân tộc mình và nghiệm ra rằng trong quá khứ, nhiều lần
tổ tiên họ sa ngã hay gặp nguy hiểm, họ đã kêu cầu, cậy trông Thiên Chúa và
Ngài đã cứu giúp họ. (Tv 22,4-6). Đó là lý do mà tác giả tin rằng bây giờ Thiên
Chúa cũng sẽ hành động như vậy để cứu giúp tác giả khỏi bệnh tật và cái chết.
Hơn nữa, chính
Thiên Chúa đã đón nhận và che chở tác giả ngay từ khi mới sinh: Chào đời con được
dâng cho Chúa/được Ngài là Chúa tự sơ sinh (Tv 22,11). Do vậy, Thiên Chúa không
có lý do gì để bỏ rơi hay xa lìa tác giả. Vì Chúa là phần sản nghiệp, là chén
phúc lộc của tác giả, chính ngài nắm giữ số mạng của tác giả nên hiển nhiên là
tác giả phải kêu cứu đến Ngài và chắc Ngài sẽ không nỡ giả điếc làm ngơ! (Tv
6,5). Vì Thiên Chúa là phần gia nghiệp của tác giả nên Ngài sẽ chẳng đành bỏ mặc
kẻ hiếu trung (tác giả) phải hư nát trong phần mộ. Trái lại, Ngài sẽ dạy cho
tác giả biết con đường dẫn đến sự sống (Tv 6, 10-11).
Tóm lại, các lý
do mà tác giả đưa ra đều nại về phía Thiên Chúa. Vì tình thương, lẽ công bằng,
danh dự của Ngài mà không nên để tác giả chết. Nếu tác giả chết thì không thể
ca tụng Chúa được nữa và điều đó cũng chẳng có ích lợi gì cho chính Thiên Chúa.
d.
Sự tin tưởng
Sau khi trình
bày những lý do để được Thiên Chúa cứu chữa, tác giả bày tỏ sự tin tưởng tín
thác của mình. Thời gian sống trên cõi đời thì chóng qua mà những thử thách lo
âu thì dầy đặc, chính vì thế, tác giả hy vọng Thiên Chúa sẽ mau đáp lời: Muôn lạy Chúa, xin đừng bỏ mặc/ đừng nỡ xa
con, lạy Thiên Chúa con thờ./ Lạy Chúa cứu độ con, xin Ngài mau phù trợ (Tv 31,
22-23). Hơn nữa, chính Thiên Chúa đã nuôi dưỡng niềm hy vọng và đã để cho
niềm hy vọng này được nối dài: Ngài đã
không giao tôi cho thần chết (Tv 118, 18).
Đoạn Thánh vịnh
16,9-10 diễn tả niềm vui sướng vô cùng của tác giả khi hy vọng được Thiên Chúa
cứu khỏi cái chết, khỏi âm phủ, tức shéol. Chính sách Cv 2,31; 13,35-36 đã
trích dẫn hai câu này để nói đến sự Phục Sinh của Đức Giê-Su. J. Harvey cho rằng
qua tư tưởng này (câu 9-10) hình như tác giả chỉ nhằm đến sự hiện diện của
Thiên Chúa, và như vậy đã mặc nhiên nhằm đến cuộc sống vĩnh cửu. Điểm mà tác giả
ước ao đó là tiếp tục sống mãi trước thánh nhan Thiên Chúa ngay ở đời này, một
khi đã được cứu cho khỏi chết (Tv 49,16; 118,7). Như
vậy, hai câu Thánh Vịnh này diễn tả niềm tin tưởng, hy vọng vào một sự sống
vĩnh cửu thường tồn bên cạnh Thiên Chúa, nhưng đó là sự sống ở đời này. Đây là
khát vọng hợp với thời đại Thánh vịnh ra đời.
Tác giả tin tưởng
rằng Thiên Chúa sẽ dạy cho tác giả biết con đường về “cõi sống”, đó là nơi “vui
sướng tràn trề” và “hoan lạc chẳng hề vơi” vì có Thiên Chúa ở cùng. Liệu “đường
về cõi sống” có phải là cõi sống lại đời sau hay không? Theo J. Harvey thì “Lời
khuyên của Thiên Chúa (Tv 16,11) chính là trực giác đức tin về sự sống”. Nhóm Các
Giờ Kinh Phụng Vụ đã chú thích câu thánh vịnh này như sau: Nỗi vui mừng hân
hoan của tác giả dựa vào niềm hy vọng liên quan đến hai điểm. Một là tác giả sống
thân mật với Thiên Chúa sẽ thoát khỏi cái chết, vì cái chết làm cho con người
phải rơi vào âm phủ là nơi không còn có liên lạc gì với Thiên Chúa, theo quan
điểm của người Do thái. Như thế, tác giả sẽ kéo dài cuộc sống hạnh phúc với
Thiên Chúa. Thứ hai là tác giả sẽ chiêm ngưỡng tôn nhan Thiên Chúa và mãi mãi sống
hạnh phúc bên Người. Niềm hy vọng đó còn mù mờ, nhưng đã khai mào cho lòng tin
vào sự phục sinh. Khi trích dẫn Tv 16,10 theo LXX (hư nát thay thế phần mộ),
thánh Phêrô (Cv 2,27) và thánh Phaolô (Cv 13,35) đã áp dụng cho Đức Ki-tô sống
lại.
Như vậy qua đoạn thánh vịnh này, tác giả tin tưởng rằng mình sẽ được sống, được
hưởng hạnh phúc lâu dài bên Chúa.
Tác giả xác tín
rằng mình chỉ tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa mà thôi vì tác giả biết là
Thiên Chúa ghét những ai “thờ thần hư ảo”, do đó tác giả phó thác hồn mình vào
trong tay “Chúa Trời thành tín”. Chính vì phó thác như thế, tác giả tin là Chúa
đã đoái nhìn đến thân phận của tác giả, đã lo lắng chăm nom khi tác giả lâm cảnh
ngặt nghèo (Tv 31, 6-9). Từ đó tác giả mời gọi toàn thể mọi người hãy hiếu
trung, hãy yêu mến và cậy trông vào Chúa vì Chúa sẽ gìn giữ người thành tín và
trừng trị kẻ kiêu căng (Tv 31, 24-25).
Tác giả cho thấy
những kẻ khác thì cậy vào của cải, do đó chúng vênh vang khi có lắm bạc tiền.
Tác giả thì trái lại, chỉ tin cậy vào một mình Thiên Chúa mà thôi vì chỉ có
Ngài mới chuộc được mạng tác giả và gỡ tác giả “ra khỏi quyền lực âm phủ” (Tv
111,7.16).
Trong hoàn cảnh
bị bệnh tật và bị mọi người xunh quanh nhạo báng chế giễu, tác giả xác tín rằng
chắc chắn Thiên Chúa sẽ nhận lời. Do vậy, tác giả thốt lên: Đi cho khuất, hỡi bọn làm điều ác/vì Chúa đã
nghe tiếng nức nở ta rồi (Tv 6,9). Từ đó tác giả ước gì những kẻ thù của
tác giả phải nhục nhã mà tháo lui một cách ê chề.
e.
Tạ ơn và hy lễ
Trong khi tin
tưởng và cầu xin, bệnh nhân không quên hứa sẽ tạ ơn Thiên Chúa. Thậm chí tạ ơn
Thiên Chúa có khi lại chính là lý do để xin Chúa cứu. Thực vậy, tác giả Thánh vịnh
9 xin Thiên Chúa dủ lòng thương kéo tác giả lên khỏi ngục tử thần “để” tác giả
dâng muôn lời ca tụng Chúa tại cửa thành Xi-on! (Tv 9,14-15).
Lời hứa sẽ ca tụng
Chúa thường được đưa ra trong lời kêu cầu như lý lẽ để đạt được điều nguyện
xin. Lý lẽ có thể được nêu hoặc dưới hình thức tiêu cực: “Nếu Chúa để con chết
đi, Danh Ngài sẽ không được chúc tụng”, hoặc dưới hình thức tích cực: “Nếu Chúa
cứu sống con, Danh Ngài sẽ được ca tụng”.
Trong trường hợp
thứ nhất, nghĩa là “nếu Chúa để cho con chết đi”, người kêu cầu khi thì cho rằng
kẻ thù của mình sẽ có dịp để nhạo cười (Tv 41,12), khi thì cho rằng đức tin của
các bạn hữu sẽ bị yếu đi, hoặc chính mình rốt cuộc sẽ phải ngừng ca tụng Thiên
Chúa, bởi vì mình bị nộp cho thần chết và những người chết thì không ca tụng được
(Tv 6, 6).
Trong trường hợp
thứ hai, nghĩa là “nếu Chúa cứu con sống”, người kêu cầu cho rằng kẻ thù của
mình sẽ phải câm miệng, và các bạn hữu của mình sẽ được củng cố trong đức tin
(Tv 40, 4). Và nhất là chính người kêu cầu sẽ khởi xướng lời ca tụng và mời gọi
những người khác cũng ca tụng Thiên Chúa (Tv 40, 17).
Thánh vịnh 30
là một thánh vịnh tạ ơn của tác giả để ca tụng Thiên Chúa vì đã được Ngài chữa
lành bệnh tật và cứu khỏi chết. Mở đầu, tác giả tạ ơn Chúa đã cho tác giả được
bình phục và cứu khỏi chết (c.2-4). Thế nên tác giả tán dương Thiên Chúa đồng
thời mời gọi mọi người (những kẻ tín trung) cùng tạ ơn (c.5). Qua việc được cứu
chữa này, tác giả nghiệm ra rằng Thiên Chúa chỉ giận trong giây lát nhưng Ngài
lại yêu thương suốt cả cuộc đời. Cơn giận không làm lu mờ đi hình ảnh một Thiên
Chúa đầy lòng nhân hậu. Vì thế, tác giả xin Thiên Chúa tiếp tục che chở (7-11) và
với niềm tin tưởng, tác giả lại tiếp tục ca ngợi và tạ ơn Thiên Chúa (12-13).
Tương tự như thế
ở thánh vịnh 31. Dù bị bệnh tật đến “gân cốt rã rời” và bị bao người chống đối
và “mưu toan lấy mạng”, tác giả vẫn bày tỏ niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa
(c.15). Không chỉ vậy, tác giả còn ca ngợi tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa
dành cho những ai kính sợ Người. Tác giả chúc tụng Thiên Chúa vì đã tỏ tình
thương kỳ diệu với tác giả bằng cách che chở họ khỏi “người đời mưu hại”, khỏi
“tầm lưỡi thị phi”. Vì cảm nghiệm được điều này nên tác giả mời gọi hết “mọi
người tín trung”, “những ai thành tín” hãy yêu mến, can đảm, cậy trông vào Chúa
vì Người sẽ luôn giữ gìn họ cũng như sẽ thẳng tay trừng trị bọn ác nhân (20-25).
Không chỉ dâng
lời chúc tụng và ngợi khen mà thôi, bệnh nhân còn dâng lễ tạ ơn như đã hứa nữa.
Thánh vịnh 116 cho thấy sau khi được ơn, tác giả dâng lễ tạ ơn mà ông đã khấn hứa
khi gặp tai nạn (14.18). hy lễ tạ ơn gồm có việc dâng chén cứu độ (13), có lẽ
là chén rượu dâng để tạ ơn Chúa vì đã ban ơn cứu độ, và những lễ hy sinh (chiên
bò).
3.
Bệnh tật và sự chết được hoàn trọn ý nghĩa trong Đức
Ki-tô
Như đã nói ở phần
giới thiệu chung, quan điểm người Do thái trong Cựu ước, nhất là qua các Thánh
vịnh cho rằng giữa bệnh tật và tội lỗi có mối liên hệ với nhau. Do vậy, bệnh tật
cũng chính là một sự dữ. Sau này, các ngôn sứ, qua những lời hứa về thời cánh
chung, loan báo rằng bệnh tật sẽ bị hủy diệt trong thế giới mới. Khi đó, sẽ
không còn người tật nguyền (Is 35,5), không còn đau khổ và nước mắt (Is 25,8).
Khi Người Công Chính chịu đau khổ tự gánh lấy những bệnh tật của chúng ta,
chúng ta sẽ được chữa lành nhờ những vết thương của Ngài (Is 53,4).
Thật vậy, Người
Công Chính đó chính là Đức Giê-su, Người đã gặp rất nhiều bệnh nhân trong thời
gian đi rao giảng. Qua những tiếp xúc với bệnh nhân, Người cho thấy bệnh tật là
một tai họa mà con người phải gánh chịu, một hậu quả của tội lỗi, một dấu chỉ của
quyền năng Satan trên loài người (Lc 13,16). Người đã cảm thương và chữa lành họ.
Tình thương và quyền năng của Người luôn song hành với nhau. Dù Người không chữa
lành hết mọi bệnh tật cho tất cả mọi người trên trần gian này, nhưng qua đó
cũng chứng tỏ tình thương và sức mạnh của Thiên Chúa.
Việc chữa lành
phần nào tiên báo sự toàn thiện sau cùng trong vương quốc Thiên Chúa. Chính Đức
Giê-su đã thông dự vào thân phận của nhân loại đau khổ để sau cùng có thể vinh
thắng trên mọi sự dữ. Hơn nữa, thánh Phaolô còn khẳng định khi gánh lấy trên
mình những bệnh tật của chúng ta trong cuộc khổ nạn, Chúa Giê-su đã mặc cho
chúng một ý nghĩa mới: như mọi đau khổ, từ đây bệnh tật có một giá trị cứu chuộc
(x Gl 4,13; 2Cr 1,8). Theo thánh nhân, bệnh tật liên kết con người với Đức
Ki-tô (2Cr 4,10).
Với cái chết
cũng vậy. Thần chết thống trị cho đến thời Đức Ki-tô. Khi Chúa Ki-tô đến và
chiến thắng Thần chết bằng chính cái chết của Người thì cũng là lúc sự chết
mang một ý nghĩa mới: đó là cùng chết với Đức Ki-tô để được sống lại với Người.
Để giải thoát chúng ta khỏi sự chết, trước hết Đức Ki-tô đã mặc lấy thân phận
phải chết của chúng ta. Cái chết của Người không phải là một sự ngẫu nhiên vì
chính Người đã nhiều lần báo trước (Mc 8,31). Người đã chấp nhận cái chết như một
sửa phạt do luật định. Người liên đới với dân người khi đón nhận hình phạt (cái
chết) dành cho Tội của con người. Vì thế, khi chết người đã tước đoạt tất cả
quyền lực của Tội và hòa giải chúng ta với Thiên Chúa. Người đã vào âm phủ với
tư cách chủ nhân và đã tự ý ra khỏi đó. Người đã trở thành trưởng tử những người
quá cố (Cl 1,18). Người đã vô hiệu hóa kẻ nắm giữ quyền lực sự chết, tức là ma
quỷ (Hr 2,14). Kể từ đó, mối tương qua giữa con người với sự chết cũng thay đổi.
Họ đã được Đức Ki-tô giải thoát khỏi luật và sự chết và sau cùng người sẽ cho
tất cả được phục sinh để hưởng sự sống đời đời với Thiên Chúa, điều mà các tác
giả thánh vịnh hằng mơ ước và nguyện xin đêm ngày.
Những đau khổ,
bệnh tật, những lời nguyện xin cho khỏi phải uống “chén đắng”, những hất hủi mà
tác giả thánh vịnh và cũng là bệnh nhân đã trải qua thì chính Đức Giê-su cũng
đã trải qua. Nhiều câu thánh vịnh như ám chỉ, báo trước cho những điều Đức
Giê-su sẽ phải chịu. Đức Giê-su đã đón nhận tất cả để rồi qua Người, Người thánh
hóa và làm cho tất cả trở nên một ý nghĩa mới mẻ, một kinh nghiệm cần thiết cho
ơn cứu độ.
Dưới ánh sáng của Tân ước, ngày nay Giáo hội vẫn
dùng các thánh vịnh để cầu nguyện với Thiên Chúa. Khi gặp phải những thánh vịnh
này, Giáo hội đọc với tâm tình hiệp thông và cầu nguyện cho những người đang gặp
đau khổ bệnh tật, nhất là những người đang đối diện với cái chết. Noi gương vịnh
gia, Hội thánh cũng trình bày những hoàn cảnh khốn khó của mình để kêu xin lòng
thương xót của Thiên Chúa. Dù trong bất cứ tình huống nào, Hội thánh vẫn tin tưởng
Thiên Chúa sẽ đoái thương an ủi, nâng đỡ và chữa lành. Nhất là khi nhìn vào cuộc
khổ nạn và phục sinh của Đức Ki-tô, chúng ta ý thức rằng những đau khổ mà mình
đang phải đón nhận là một cách thức để hiệp thông với những cuộc thương khó của
Đức Ki-tô và cũng như Ngài, chắc chắn chúng ta cũng sẽ chiến thắng bệnh tật và
cái chết để được hưởng hạnh phúc vinh quang với Người.
Tài liệu tham khảo
Kinh thánh. Bản
dịch của Nhóm CGKPV. Hà nội: Tôn giáo, 2011.
Điễn ngữ Thần học Thánh kinh. Bản dịch của Giáo hoàng Học viện Piô X.
Hoàng Đắc Ánh, Trần
Phúc Nhân. Như hương trầm. TP HCM, Tủ
sách đại kết, 1992.
Harvey. Thánh Vịnh. Bản dịch của Giáo hoàng Học viện
Piô X.
Cầu nguyện với Thánh vịnh. Chủng viện Phan Thiết, 2002.