Hiển thị các bài đăng có nhãn Đức Mẹ và Kinh Mân Côi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đức Mẹ và Kinh Mân Côi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 2 tháng 4, 2014

TIN VUI



Thứ Ba: Truyền tin (Lc 1,26-38)
Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.
Đi từ cuộc sống: Người Việt chúng ta hay dùng kiểu nói “chơi chữ”. Chẳng hạn như “tin tức” thì người ta tách ta thành “tin thấy mà tức”. Mà quả thật, “tin tức” hàng ngày bây giờ đúng là “tin thấy mà tức”. Nào là ngang nhiên chặt tay cướp của giữa phố, “mẹ mìn” hoạt động dễ dàng trong các bệnh viện, tham nhũng, hối lộ cả tiền tỷ nhưng chẳng mấy ai phanh phui, vụ nào không che dấu nổi mới chấp nhận công khai trên báo chí. Hiếm hoi lắm mới có được một Tin Vui chen chân giữa muôn ngàn tin giật gân. Thấy mà xót xa!
Lời Chúa soi đường: Lời Chúa hôm nay quả là một Tin Vui cho chúng ta. Đó là tin mà bao thế hệ mong đợi, tin mang lại niềm vui, niềm hy vọng và sự sống cho con người. Đó là tin mà theo các giáo phụ: cả trên trời lẫn dưới đất đều im lặng hồi hộp lắng nghe và chờ đợi lời đáp trả của Mẹ: tin Con Thiên Chúa nhập thể làm người vì chúng ta.
Tận hưởng niềm vui: Chúa đã mang Tin Vui đến cho chúng ta. Chúa cũng sai chúng ta mang Tin Vui đó đến cho muôn người. Trách nhiệm của người Ki-tô hữu không phải là loan báo những tin giật gân hay tin buồn mà là tin mang lại niềm vui và hy vọng. Sự hiện diện của người Ki-tô hữu trong thế giới cũng phải là sự hiện diện mang lại niềm an ủi cho tha nhân để tin tưởng vào một thế giới tốt đẹp hơn.
Chung lời cầu nguyện: Xin Chúa giúp ý thức trách nhiệm loan báo Tin Vui qua chính cách sống và sự hiện diện của con.

Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

TÍN ĐIỀU VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI



Dẫn nhập
Nếu như hai tín điều đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và Trọn Đời Đồng Trinh được Giáo hội tuyên xưng từ rất sớm (vào thế kỷ thứ IV), thì hai tín điều Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội và hồn xác lên trời mới được Giáo hội tuyên xưng vào thế kỷ XIX và XX. Điều đó không có nghĩa là hai tín điều này mới được mạc khải nhưng vì Giáo hội cần một thời gian suy tư dưới sự soi sáng của Chúa Thánh thần mới có thể hiểu nội dung súc tích của các tín điều này.
Lịch sử hình thành tín điều[1]
Ngay từ thời các giáo phụ, người ta đã ghi nhận sự thánh thiện của đức Maria nhưng không mấy ai đặt vần đề đức Maria thánh thiện (được khỏi tội) từ lúc nào. Thánh Anselmô là người khởi đầu cho những cuộc khảo luận thần học về đức Maria vô nhiễm. Ngài nêu lên vấn nạn: nếu đức Maria được sạch tội ngay từ lúc thụ thai thì hóa ra người không cần đến ơn cứu chuộc hay sao? Và rồi ngài trả lời rằng đức Maria được hoàn toàn cứu chuộc ngay từ trước khi sinh ra. Tuy nhiên không phải tất cả các nhà thần học đều đồng ý với lập luận ấy vì những vấn nạn về ơn cứu chuộc. Gulielmô de Ware và Gioan Scôtô giải quyết vấn nạn bằng cách phân biệt giữa ơn thánh “rào đón” và ơn thánh “chữa trị”. Cả hai đều là hiệu quả ơn cứu chuộc của Đức Kitô nhưng đức Maria được ơn “dự phòng”, nghĩa là người được giữ gìn khỏi tội vì nhắm thấy trước những công nghiệp của đức Kitô. Vào năm 1661, đức Giáo hoàng Alexandrô VII cho rằng đạo lý đã có tính cách phổ quát và cấm nói ngược lại. Vào năm 1849 sau khi tham khảo ý kiến của tất cả các Giám mục hoàn cầu, tín điều đức Mẹ vô nhiễm đã được công bố ngày 8/12/1854.[2]

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Kinh Mân Côi và gia đình: Đời sống gia đình là một lời rao giảng

Năm Sự Sáng
Thứ ba: Đức Giê-su rao giảng Tin Mừng
Chủ đề: Đời sống gia đình là một lời rao giảng

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời. (Mt 5,14-16).

Đức Giê-su đến trần gian với sứ vụ khai mở Nước Trời, loan báo Tin Mừng cứu độ, thông truyền tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Ngài đi khắp nẻo đường quê hương để mời gọi người ta ăn năn sám hối. Ngài chọn lấy một lối sống bình dân, giản dị như bao người khác. Ngài hòa mình vào dòng đời, mặc lấy những khổ đau của một kiếp nhân sinh. Ngài rao giảng và làm chứng cho tình yêu bằng lời nói và hành động, bằng lời giảng dạy và cả cuộc sống. Tất cả đều quy hướng về một tình yêu đặc biệt Thiên Chúa dành cho con người.
Trong diễn văn đọc trước đại biểu của các phong trào về gia đình tại Thượng Hội đồng Giám mục thế giới về gia đình ngày 12.10.1980, Đức Gio-an Phao-lô II đã nhắc nhở các gia đình Kitô giáo phải sống chiều kích thiêng liêng bằng những yếu tố tạo thành thực tại của gia đình, đó là tình yêu giữa vợ chồng, tình yêu giữa cha mẹ và con cái. Sự cảm thông, lòng tha thứ, sự tương trợ giáo dục con cái cũng như công việc niềm vui nỗi khổ. Trong hôn nhân Ki-tô giáo, tất cả những yếu tố này được bao bọc, được thấm nhuần ơn thánh và hiệu năng của bí tích, do đó trở thành con đuờng sống Phúc âm, một trường dạy đức ái Ki-tô giáo. Gia đình là hình thức sống Tin Mừng một cách đặc biệt. Học hỏi Tin mừng, thực thi Tin mừng chính là sống trọn vẹn chiều kích thiêng liêng của gia đình.
Lạy Chúa, nhờ ân sủng của bí tích Hôn nhân, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Ma-ri-a, xin cho các gia đình thành tâm sống trọn chiều kích thiêng liêng của mình. Đó là một cách thức sống Tin Mừng và loan báo Tin Mừng hiệu quả trong bối cảnh của gia đình hiện nay.

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Kinh Mân Côi và Gia đình: Đời sống gia đình dưới sự hiện diện của Thiên Chúa

                    Năm sự Sáng
Thứ hai: Đức Giê-su dự tiệc cưới Ca-na
Chủ đề: Đời sống gia đình dưới sự hiện diện của Thiên Chúa

1 Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. 2 Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. 3 Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người : "Họ hết rượu rồi." (Ga 2,1-3).

Đức Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên của mình tại tiệc cưới Ca-na. hôm đó, tiệc cưới đang vui say, lòng người đang náo nức, bỗng nhiên hết rượu. Sự cố bất ngờ có nguy cơ gây đỗ vỡ. Mầm móng của lo âu xuất hiện ngay trong khởi đầu của một gia đình trẻ. May thay, đã có sự hiện diện của mẹ  Ma-ri-a và Đức Giê-su. Mẹ đã kịp thời quan sát và Đức Giê-su cũng kịp thời can thiệp. Tiệc cưới tiêp tục vui say. Hạnh phúc tiếp tục triển nở, vì đã có Chúa ở cùng.

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

Kinh Mân Côi và Gia đình: Gia đình sống bí tích Thanh Tẩy

MẦU NHIỆM SỰ SÁNG
Thứ nhất: Đức Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan
Chủ đề: Gia đình sống bí tích Thanh Tẩy


21 Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, 22 và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con của Cha ; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con. (Lc 3,21-22).

Dầu là con Thiên Chúa, Đức Giê-su cũng đã khiêm tốn bước xuống dòng sông Gio-đan để nhận phép rửa của ông Gio-an. Một phép rửa tỏ lòng sám hối ăn năn dù rằng Người chẳng phạm tội. Phép rửa Người lãnh nhận tiên báo một phép rửa khác do chính Người sẽ thực hiện, đó là phép rửa trong nước và Thánh Thần. Phép rửa này không chỉ để tỏ lòng sám hối ăn năn mà thôi nhưng được thực hiện trong niềm tin vào Thiên Chúa và mang lại ơn tái sinh cho con người (x. Ga 3,5).
Con người được sinh ra nơi gia đình nhưng được tái sinh trong Giáo hội nhờ bí tích Thanh Tẩy. Ngày lãnh phép Thanh Tẩy, con người nhận lấy tấm áo trắng cùng nến sáng, biểu trưng cho sự sống mới trong đức tin. Gia đình là nơi nuôi dưỡng và giáo dục con người phần xác thế nào thì cũng dưỡng dục và huấn luyện đời sống đức tin như vậy. Gia đình là nơi mọi người nhắc nhở và trợ giúp nhau sống trọn vẹn đức tin của mình. Gia đình cũng là môi trường để thực hành các nhân đức Ki-tô giáo như bác ái, hy sinh, dấn thân, v.v..

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013

Kinh Mân Côi với gia đình: Bổn phận của gia đình đối với Thiên Chúa

Thứ năm: Tìm được Chúa Giê-su trong đền thánh
Chủ đề: Bổn phận của gia đình đối với Thiên Chúa

Đức Giê-su đáp : "Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?" Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói (Lc 2,49-50).

Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội lên đền thờ mừng lễ Vượt qua như luật định. Năm Đức Giê-su mười hai tuổi, Người cùng cha mẹ mình thực thi nghĩa vụ này. Sau những ngày lễ, thay vì theo cha mẹ trở về Nadaret, Người âm thầm ở lại Giêsusalem. Sau ba ngày vất vả, hai ông bà mới tìm thấy cậu bé Giê-su đang ngồi đàm đạo giữa các thầy dạy Do thái. Khi được hỏi lý do tại sao lại hành động như vậy, cậu đáp: Người phải thực thi bổn phận ở nhà Cha.
Một câu trả lời không hề dễ hiểu đối với các ngài lúc bấy giờ! Bổn phận nào nữa? Chẳng phải cả gia đình đang thi hành bổn phận hành hương đền thờ đấy ư? Dù vậy, Đức Ma-ri-a vẫn giữ những lời nói đó trong lòng để “suy đi nghĩ lại”. Theo thời gian, Mẹ sẽ dần hiểu ra bổn phận đó là gì.

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Kinh Mân Côi và gia đình: Tiến dâng con cái cho Chúa

Thứ tư: Đức Ma-ri-a dâng Chúa Giê-su trong đền thánh
Chủ đề: Tiến dâng con cái cho Chúa

Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng : “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Lc 2,22-23).

Theo luật Do thái, sau khi sinh 40 ngày, người mẹ cần được thanh tẩy (Lv 13,1-4). Cũng theo luật, mọi con trai đầu lòng phải được tiến dâng cho Chúa (Xh 13,2). Gia đình thánh gia đã chu toàn những khoản luật này một cách chu đáo. Việc dâng con trai đầu lòng cho Chúa cùng với những lễ vật kèm theo là để tưởng nhớ lại việc Thiên Chúa đã cứu mọi con trai của dân Do thái trên đất Ai cập. Dù là một nghi thức để tưởng nhớ một hồng ân trong quá khứ, tuy nhiên, việc tiến dâng con cái cho Chúa còn gợi lên một ý thức khác nơi các gia đình, đó là: Con cái là hồng ân.

Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013

Kinh Mân Côi, Kinh Hòa Bình

Tuy việc lần hạt Mân Côi đã có từ thời Trung cổ nhưng lễ kính Đức Mẹ Mân Côi mới được đức Piô V, một tu sĩ Dòng Đa Minh, thành lập năm 1573[i], để tạ ơn Thiên Chúa sau cuộc chiến thắng của đạo quân Công giáo ở Lepanto[ii] vào ngày 07.10.1571. Để quãng bá ngày lễ này, Dòng Đa Minh đã dành ra 15 ngày thứ Bảy và một tháng trước đó để chuẩn bị. Thay vì dâng hoa như trong tháng 5, việc đạo đức chính trong tháng 10 là lần hạt Mân Côi. Tại các nhà thờ Dòng Đa Minh, các cha cũng lợi dụng dịp này để thuyết giảng không những về Đức Ma-ri-a mà còn về toàn bộ đức tin Ki-tô giáo, tóm lại trong 15 mầu nhiệm kính nhớ việc Nhập thể và Cứu chuộc của Đức Ki-tô. Tục lệ này được đẩy mạnh hơn nữa vào hai thế kỷ 19 và 20 cùng với những lần Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức và Fatima.
Hội Mân Côi đã được cha Michele Francois, một tu sĩ Dòng Đa Minh chính thức thành lập tại thành phố Koeln, nước Đức ngày 08.09.1475. Nhờ sự rao giảng của các cha Dòng Đa Minh, Hội Mân Côi nhanh chóng truyền bá đi khắp nơi. Vào ngày 07.10.1571, các hội viên Hội Mân Côi tụ họp nhau cầu nguyện, xin Đức Ma-ri-a ban ơn thắng trận. Vì thế Đức Giáo hoàng nhìn nhận chiến thắng này là hồng ân nhờ lời chuyển cầu của Đức Ma-ri-a.
Ngày nay, Giáo hội khuyến khích đọc kinh Mân Côi để cầu nguyện cho hòa bình.trong Tông thư Kinh Mân Côi được Đức Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.10.2002 có đoạn viết : “Một số hoàn cảnh lịch sử cũng khiến cho việc phục hồi Kinh mân nên hợp thời. Trước tiên, nhu cầu nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bình an. Kinh mân côi đã được các vị tiền nhiệm của tôi và chính tôi nhiều lần đề nghị như một lời kinh cầu cho hoà bình. Vào lúc khởi đầu một ngàn năm mới với biến cố tấn công gây kinh hãi ngày 11.9.2001, chứng kiến mỗi ngày tại nhiều miền trên thế giới những cảnh đổ máu và bạo lực, khám phá lại Kinh mân côi có nghĩa là chìm sâu vào việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm Đức Ki-tô Đấng là bình an của chúng ta, bởi vì Người đã liên kết đôi bên thành một, và phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Ep 2,14). Vì thế, ta không thể đọc Kinh mân côi mà không cảm thấy thôi thúc dấn thân cách cụ thể để kiến tạo hoà bình, đặc biệt tại quê hương Đức Giê-su, đang bị thử thách nặng nề và đặc biệt gần gũi trong trái tim của mọi ki-tô hữu.” (số 6).

Tài liệu tham khảo
Phan Tấn Thành, O.P., Hiểu để sống đức tin, tập 1
Tông thư Kinh Mân Côi




[i] Đức Piô V bày tỏ ước muốn thiết lập lễ này nhưng ngài lại qua đời sớm, một năm sau, người kế nhiệm là Đức giáo hoàng Grêgôriô III chính thức thiết lập.
[ii] Sự bành trướng của Hồi giáo là nguy cơ lớn cho sự tồn tại của Ki-tô giáo. Đức Giáo hoàng Piô V đã phải đứng ra lập một liên quân Công giáo để chống lại sự bành trướng này. Trước khi lâm trận, ngài đã tổ chức tại Rôma ba ngày rước kiệu và đền tội. Ngài cũng kêu gọi các hồng y ăn chay mỗi tuần một ngày để cầu nguyện.

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

Kinh Mân Côi với gia đình: Gia đình sống thánh ý Thiên Chúa

Thứ ba: Đức Ma-ri-a sinh Chúa Giê-su nơi hang đá
Chủ đề: Gia đình sống thánh ý Thiên Chúa

Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa (Gs 24,15)

Thánh ý Thiên Chúa bước đầu đã được thực hiện. Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế vào cung lòng mình, thánh Giuse đã đón nhận, che chở và chăm sóc cho hai mẹ con, Ngôi Hai đã nhập thể giữa lòng nhân loại. Mỗi người một cách thế khác nhau, nhưng từng thành viên trong gia đình thánh gia đã vui vẻ và mau mắn đón nhận cũng như chu toàn thánh ý Thiên Chúa. Thánh ý Thiên Chúa là trung tâm của đời sống gia đình. Mọi thành viên từ bỏ những ý riêng của mình để phục vụ thánh ý Thiên Chúa, làm cho thánh ý được thể hiện giữa lòng nhân loại. Một khi đón nhận và sống thánh ý Thiên Chúa, gia đình thánh gia đã góp phần mang ơn cứu độ đến cho nhân loại.
Các gia đình ngày nay ít dành thời gian cho Thiên Chúa. Còn đâu những bữa cơm thân mật quây quần trong tâm tình tạ ơn! Còn đâu những giờ kinh thiêng liêng thân thưa với niềm phó thác! Thiên Chúa không còn là trung tâm của đời sống gia đình. Ngài dường như không đủ sức quy tụ gia đình lại với nhau. Ngài cũng chẳng còn là “đối tượng” được ưu tiên hàng đầu trong mọi quyết định của gia đình. Người ta sẵn sàng li dị hay chia tay, người ta đang tâm phá thai hay đưa ra những quyết định trái nghịch luân lý mà chẳng quy về giáo huấn của Chúa. Người ta đặt lợi ích của bản thân lên trên tất cả chứ không phải là tìm và thực thi thánh ý Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin cho các gia đình biết đặt Chúa ở trung tâm của đời sống. Xin cho trong mọi quyết định, gia đình luôn hướng về Chúa là Đấng gìn giữ và dẫn dắt mọi biến cố, để gia đình thực sự là nơi tình yêu Chúa được thể hiện trọn vẹn.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

Bảy sự thương khó của Đức Ma-ri-a

Ngày 15: Đức Mẹ sầu bi

Ngay sau ngày lễ “Suy tôn thánh giá ” Chúa Giê-su (ngày 14.09), Giáo hội mừng kính lễ “Đức Mẹ sầu bi ” hay còn gọi là lễ kính nhớ “bảy sự thương khó ” của Đức Ma-ri-a. Việc tôn sùng bảy sự thương khó Đức Trinh Nữ Maria, được một linh mục đạo đức là cha Jean de Coudenberghe thiết lập.


Sau đây là bảy hoàn cảnh đặc biệt đã làm cho Đức Trinh Nữ phải sầu khổ:


1. Lời tiên tri của Simêon.
2. Cuộc chạy trốn qua đất Ai cập.
3. Việc lạc mất Chúa Giêsu tại Giêrusalem.
4. Việc Chúa Giêsu vác thánh giá.
5. Việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh.
6. Việc hạ xác Chúa Giêsu khỏi Thánh giá.
7. Việc táng xác Chúa Giêsu trong mồ.

Trước đây, lễ này được cử hành vào ngày thứ sáu trước Chúa nhật Thương khó để cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa cuộc khổ nạn của Đấng Cứu Thế với những đau khổ mà Đức Ma-ri-a phải chịu. Xong, vì Giáo hội muốn thời gian mùa Chay chỉ tập trung vào cuộc khổ nạn của Đức Giê-su mà thôi nên lễ này được dời lại như ngày nay. Tuy vậy, việc cử hành ngay sau lễ “Suy tôn thánh giá “ của Đức Giê-su cũng cho thấy sự thông phần đau khổ của Mẹ với Con yêu dấu của mình.

Trong bài đọc một trích thư gửi tín hữu híp-ri chúng ta đọc thấy như sau: Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục ; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người (Hr 5,8-9). Cũng vậy, ta có thể nói: Dầu là Mẹ Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a cũng nếm trải những đau khổ cuộc đời trước khi đón nhận ơn cứu độ. Mẹ là người đầu tiên được hưởng hoa trái của ơn cứu độ nhưng cũng chính Mẹ là người kết hiệp trọn vẹn với những đau khổ của Đức Giê-su. Qua thánh lễ này, xin cho những ai đang gặp đau khổ ý thức được rằng họ đang “nên một” với Đức Ki-tô trong những đau khổ của đời này và rồi họ cũng sẽ được “nên một” với Người trong vinh quang thiên quốc.

Lạy Chúa, khi Đức Ki-tô chịu treo trên thập giá, Chúa đã muốn cho Thánh Mẫu của Người đứng kề bên mà thông phần đau khổ. Xin cho Hội thánh Chúa biết noi gương Thánh Mẫu mà kết hợp với Đức Ki-tô chịu khổ hình, để mai ngày được phục sinh vinh hiển cùng với Đức Ki-tô (Lời nguyện của ngày lễ 15.09).

 Tài liệu tham khảo
Theo vết chân Người, ngày 15-09.


Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

Ý nghĩa Danh Thánh Ma-ri-a

Ngày 12: Kính Danh Thánh Đức Ma-ri-a 


Lễ kính Danh Thánh Đức Ma-ri-a được cử hành trước hết ở Cuenca, Tây Ban Nha vào ngày 12/09/1513. Năm 1683, đức thánh cha Innocentê XI cho mừng trong toàn thể Hội thánh để tạ ơn Chúa và Đức Ma-ri-a vì trận chiến thắng tại Vienne, chấm dứt đường tiến sang Châu Âu của Hồi giáo. Năm 1970 lễ này không còn nằm trong lịch phụng vụ cải tổ nhưng lại được tái lập vào năm 2002.

Vậy đâu là ý nghĩa của ngày lễ này? Xét về tầm nguyên, Ma-ri-a có gốc tiếng Do Thái là Miryam. Đây là một tên gọi phổ biến và có nhiều cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của tên gọi này. Tuy nhiên, cách giải thích thuyết phục hơn cả là từ Miryam được ghép từ một từ gốc Ai cập và một từ gốc Do Thái. Hai từ này ghép lại có nghĩa là “người được Chúa yêu thương”. Tên này rất hợp với Đức Ma-ri-a, người được thiên sứ Gabriel chào là “kẻ được Thiên Chúa sủng ái”.

Khi kính Danh Thánh Đức Ma-ri-a, chúng ta muốn hợp lời với thiên sứ Gabriel và bà Ysave để ngợi khen Mẹ vì đã được Thiên Chúa đoái thương chọn làm thân mẫu của Chúa Cứu Thế. Vì thế chúng ta tin rằng Mẹ cũng đang quan tâm đến ơn cứu độ của mỗi người chúng ta. Đó cũng là ý nghĩa của kinh “Kính Mừng” trong đó Danh Ma-ri-a được lặp lại hai lần: lần thứ nhất mang tính chất chúc tụng ngợi ca, còn lần thứ hai thì mang tính chất khẩn cầu.


(Tóm lược từ “Hiểu để sống đức tin” của cha Phan Tấn Thành, O.P., tập 1)    

Thứ Năm, 5 tháng 9, 2013

Sinh nhật Đức Ma-ri-a (8-9)

Xét dưới khía cạnh lịch sử, không có sử liệu nào nói đến ngày sinh của Đức Ma-ri-a. các tài liệu Tân ước cũng chỉ cho ta biết Đức Ma-ri-a là người Nazarét, đã thành hôn với Giuse và là mẹ của Đức Giê-su mà thôi. Tuy nhiên, theo truyền thống cũng như sách “Tiền Phúc âm của Giacôbê” thì song thân của Đức Ma-ri-a là ông Gioakim và bà Anna. Ngoài ra, tác giả cuốn sách trên còn cho biết nhiều chi tiết về thời thơ ấu của Đức Ma-ri-a cũng như cuộc sống của song thân ngài. Tuy thế, ngày sinh của ngài cũng không được nhắc tới. Điều này cũng thật dễ hiểu vì thời đó có mấy ai để ý đến ngày sinh của mình như thời nay, huống gì là ngày sinh của người khác!
Xét dưới khía cạnh phụng vụ, có hai giả thuyết về ngày lễ này. Giả thuyết thứ nhất, lễ kính sinh nhật Đức Ma-ri-a vào ngày 8.9 bắt nguồn từ Giêrusalem. Vào thế kỷ thứ V, một ngôi nhà thờ được cất lên vào chô mà truyền thống cho rằng là nơi bà Anna đã sinh Đức Ma-ri-a. Có thể ngôi nhà thờ này được cung hiến vào ngày 8.9! Giả thuyết thứ hai cho rằng bên Đông Phương trước kia, ngày 8.9 trùng vào những ngày đầu năm dân sự, do vậy người ta muốn kính nhớ Đức Ma-ri-a vào những ngày đầu năm này. Đến giữa thế kỷ thứ VI hoặc đầu thế kỷ thứ VII lễ này được truyền bá sang Tây Phương.
Xét dưới khía cạnh thần học, lễ này liên quan đến bản thân Đức Ma-ri-a cũng như đến lịch sử cứu độ. Vì lòng quý mến Đức Ma-ri-a, Giáo hội muốn nhắc nhớ đến từng biến cố trong cuộc đời của Mẹ. Xem lịch phụng vụ trong một năm ta sẽ thấy những thánh lễ dành cho Mẹ cũng tương tự những thành lễ dành Đức Giê-su, con yêu dấu của Mẹ. Như vậy, Giáo hội vừa muốn nhắc chúng ta về mối tương quan mật thiết giữa Đức Ma-ri-a với Chúa Giê-su đồng thời cũng mời gọi ta noi theo các nhân đức của Mẹ trong cuộc đời. Lễ này cũng nhắc nhớ chúng ta về một biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ. Lịch sử cứu độ diễn ra với cao điểm là biến cố Nhập thể của Đức Giê-su. Do đó, ngày sinh nhật của Đức Ma-ri-a coi như là chấm dứt giai đoạn chuẩn bị. Người Mẹ ra đời báo hiệu sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế trong nay mai.
Tài liệu tham khảo
Phan Tấn Thành, Hiểu để sống đức tin, tập 1

Kinh Mân Côi với gia đình: Chia sẻ trong gia đình

      Mầu nhiệm vui
Thứ hai: Đức Ma-ri-a đi thăm bà Ê-li-sa-bét
Chủ đề: chia sẻ trong gia đình
Chớ để (tâm) hồn con chìm đắm trong phiền muộn, cũng đừng để mình nặng trĩu những ưu tư” (Hc 30,21)

Được tin người chị họ đang mang thai khi tuổi đã xế bóng, Đức Ma-ri-a đã “vội vã lên đường”. Hình ảnh Mẹ hăng say băng đồi vượt dốc cho thấy niềm vui và nhu cầu cần được chia sẻ trong cuộc sống. Thời gian ba tháng sống bên nhau là thời gian hai người mẹ tương lai tâm sự với nhau về những điều lạ lùng Thiên Chúa đã can thiệp trong cuộc đời mình, về niềm vui cũng như những băn khoăn lo lắng cho tương lai của hai con trẻ, và chắc chắn là còn về nhiều điều khác nữa trong cuộc sống.

Tâm sự với nhau thực sự là nhu cầu cần thiết trong mọi gia đình. Qua đó, những nỗi niềm, những ưu tư, những khát vọng được nói lên, được lắng nghe và được chia sẻ. Ngày nay, nhiều gia đình không sắp xếp được thời gian để ngồi trò chuyện trực tiếp với nhau. Những cuộc trò chuyện trên điện thoại, qua máy tính nhiều khi còn nhiều hơn là tiếp xúc trực tiếp với nhau. Hậu quả là con người dần trở nên khô cứng, vô cảm.

Lạy Chúa Giê-su, chia sẻ với nhau chính là một cách để thông chia tình yêu và sống mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Xin cho các gia đình biết trân trọng những giây phút bên nhau và dành thời gian cho nhau. Trong những giờ quây quần đáng quý đó, xin Chúa hiện diện giữa họ và đồng hành với họ trong mọi biến cố vui buồn của gia đình. Amen. 

Kinh Mân Côi với gia đình_Hồng ân sự sống

Mầu nhiệm vui

Thứ nhất: Thiên thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a

Chủ đề: Hồng ân sự sống

Con cái là hồng ân của Chúa, con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban” (Tv 127,3)

Đang tận hưởng cuộc sống bình yên giữa làng quê êm ả Nadarét, bỗng đâu sứ thần xuất hiện với thông điệp bất ngờ. Tuy có chút bối rối, nhưng khi biết sự sống mà mình sẽ cưu mang đến từ Thiên Chúa và là hồng ân cho cả nhân loại, Đức Ma-ri-a đã vui nhận đáp lời xin vâng.
Mỗi một mầm non sự sống đều là ân lộc Chúa ban. Chính Thiên Chúa đã thiết lập quy trình tình yêu: hoa trái của tình yêu chính là một sức sống mới. Dẫu cho thực tế, có những sự sống không phải là kết quả của tình yêu nhân loại, nhưng chắc chắn khơi nguồn từ Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là chủ sự sống đã thổi sinh khí vào con người. Một vài phụ huynh có thể lo âu về sự sống này, nhưng nếu họ hiểu rằng mọi người bước vào trần gian đều mang theo một sứ mệnh thì có lẽ họ sẽ không nở từ chối các mầm non sự sống này.

Lạy Chúa, càng ngày càng có nhiều người mẹ đang tâm bỏ đi sự sống do chính mình góp phần tạo nên. Xin cho họ, nhờ lời chuyển cầu của mẹ  Ma-ri-a, nhận ra sự sống không phải là một món nợ nhưng là một quà tặng, không phải là tội lỗi nhưng rất linh thiêng, không phải là bóng tối hướng về quá khứ nhưng là ánh sáng chiếu đến tương lai, nơi sự sống đó sẽ thi hành sứ mệnh độc đáo duy nhất của mình. Amen.

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

Đức Maria trong các bài đọc kinh Sách

1.                       Giới thiệu chung
Bên cạnh thánh lễ và các Bí tích, Kinh Nhật tụng có một vị trí quan trọng trong đời sống phụng vụ của Giáo hội. Đây là kinh nguyện công cộng của Giáo Hội, là nguồn đạo đức và của ăn cho mọi người. Do đó, để việc tham dự giờ kinh đạt kết quả tốt hơn, việc học hỏi và tìm hiểu các thánh vịnh và các bài đọc là rất cần thiết.[1] Đàng khác, trong khi cử hành các mầu nhiệm của Chúa Kitô theo chu kỳ hàng năm, Giáo hội cũng dành một sự tôn kính đặc biệt đối với Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Ðấng đã nối kết với công trình cứu chuộc của Con mình bằng mối dây bất khả phân ly. Nơi Mẹ, Giáo Hội ngưỡng mộ và tán tụng thành quả tuyệt diệu của công trình cứu chuộc.[2]
Phụng vụ nói chung và các giờ Kinh Nhật tụng nói riêng dành cho Mẹ một chỗ đứng quan trọng. Ngoài các ngày lễ cố định dành riêng cho Mẹ theo chu kỳ trong năm, Mẹ còn được kính nhớ cách đặc biệt vào các ngày thứ Bảy. Trong phần chung các thánh, phần chung dành cho Đức Maria chỉ đứng sau phần cung hiến các thánh đường.
Trong hai bài đọc dài của giờ Kinh Sách, bài đọc đầu tiên lấy từ Kinh Thánh còn bài thứ hai thì trích từ các bài diễn giải của các giáo phụ hay các thánh. [3] Việc đọc các bài chú giải cũng như những bài giảng của các Giáo phụ đã thấy xuất hiện trong thần vụ những ngày lễ của Phụng vụ Syri cổ thời. Trong truyền thống Hylạp, người ta đọc bài của các Giáo phụ trong giờ Orthros (sáng sớm). Trong Giáo Hội La tinh, thì có lẽ thánh Bênêđitô là người đã đưa ra sáng kiến phải đọc những bài chú giải kinh thánh vào giờ thần vụ ban đêm. Cũng vào khoảng thời gian đó, đền thờ thánh Phêrô ở Rôma cũng làm như vậy: “Người ta đọc những bài của các thánh Giêrônimô, Ambrôsiô, và những Giáo Phụ khác, tùy theo nhu cầu[4]. Tập quán đọc bài giáo phụ này dần dần lan rộng trong giờ kinh của Giáo hội. Cuộc canh tân của Đức Piô V đã thay đổi sâu xa cuốn bài đọc Giáo phụ của sách nguyện Rôma, đặc biệc là đã thêm vào những bài của các Giáo phụ Hy Lạp để làm phong phú hóa tư tưởng Kitô giáo. Trong cuốn các giờ kinh phụng vụ 1971, các bài đọc Giáo phụ đã được nới rộng đáng kể, một phần vì được đọc mỗi ngày (trừ ngày kính thánh có bài đọc về thánh ấy) và không giới hạn vào các Giáo phụ nhưng được mở rộng để đón nhận tất cả những trang sách thiêng có giá trị nhất của các tác giả Kitô giáo thuộc mọi thời đại.[5] Có hơn 600 bản văn của 180 giáo phụ và văn sĩ Kitô giáo từ thánh Clemen I (tk 1) đến Công đồng Vaticano II đã được dùng làm bài đọc thứ hai trong giờ Kinh Sách. Điều này nói lên sự phong phú của các bài giáo huấn trong đời sống phụng vụ của Giáo hội. Bài đọc Giáo phụ cũng giúp giáo dân hiểu các mùa và lễ Phụng vụ, hơn thế, còn mở lối cho họ tiến đến kho tàng thiêng liêng vô giá làm thành di sản quý báu của Hội thánh.[6]
Trong các bài đọc thứ hai này, có rất nhiều khảo luận nói về Đức Maria với nhiều chủ đề phong phú. Tập họp các chủ đề này ta sẽ có một dòng chảy xuyên suốt từ vai trò và hình bóng Đức Maria trong Cựu ước cho đến việc cưu mang và sinh hạ Ngôi lời cũng như vị trí của mẹ trong Giáo hội ngày nay. Các bản văn trình bày những vấn đề về Thánh mẫu học, Kitô học cho đến Giáo hội học, đặc biệt là những lời ca tụng Giáo hội dành cho mẹ cũng như những nhân đức mẹ đã thực hiện trong cuộc sống của mình. Các bài viết này đến từ nhiều nguồn khác nhau. Không kể các bài đọc một là các bài trích từ Kinh thánh, các bài đọc hai trích của các Giáo phụ nổi tiếng như Augustinô, Ambrôsiô, Irênê, Bênađô, Gioan Kim khẩu, Syrilô, Giáo hoàng Lêô cả, Giáo hoàng Piô XII, các thánh Bê-đa khả kính, Athanasiô, Ansenmô,v.v, cũng như một số bài trích từ các văn kiện của Công đồng chung Vaticanô II.
Các bài đọc này được đọc trong các ngày lễ kính Mẹ, các ngày thứ Bảy dành cho Mẹ cũng như các bài trong các ngày thuộc mùa Vọng. Bên cạnh một số bài nhắc đến Đức Maria một cách gián tiếp, thì phần đông dành riêng cho Mẹ một cách trực tiếp. Bài viết này nhằm tìm hiểu một số chủ đề qua các bài đọc này và qua đó cho thấy phần nào vai trò và vị trí của Mẹ trong đời sống của Hội thánh.           

2.                       Đức Maria trong chương trình cứu độ
2.1.               Đức Maria và Eva
Mối tương quan giữa Đức Maria và bà Eva đã được Thánh kinh đề cập đến ngay từ buổi đầu của lịch sử con người: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Từ đó mối tương quan giữa Đức Maria và Eva cũng như mối tương quan giữa Đức Kitô và Ađam luôn được quan tâm. Trong bài đọc hai ngày thứ Sáu, tuần thứ 2 mùa Vọng, Giám mục Irênê đã cho thấy sự đối lập giữa Đức Maria và Eva trong một khảo luận chống lạc giáo của mình. Ngài viết: “Xưa bà Eva bị thần dữ dùng lời lẽ dụ dỗ, đã trốn tránh Thiên Chúa, vì bất tuân lời Người. Còn nay, Đức Maria được thiên thần loan báo tin mừng, đã cưu mang Thiên Chúa nhờ tuân phục lời Người. Bà Eva đã bị dụ dỗ bất tuân phục Thiên Chúa còn Đức Maria thì được khích lệ tuân phục Thiên Chúa, để trinh nữ Maria trở nên trạng sư cho Eva”. Như vậy, hình ảnh trinh nữ Maria đối lập với hình ảnh bà Eva trong việc tuân phục Thiên Chúa.
Thánh Pơ-rốc-lô, Giám mục constantinop cũng đã viết trong một bài giảng của mình và được trích đọc trong ngày thứ Bảy nhớ Đức Mẹ như sau: “Lỗi lầm của Eva đã được xóa bỏ và thứ tha nhờ sự tinh tuyền của đức trinh nữ Maria”. Như vậy, với sự tuân phục, Đức Maria đã sửa chữa lỗi lầm bất tuân phục của bà Eva. Ngoài ra, thánh Giám mục Gioan Kim khẩu còn có một bài giảng nổi tiếng, được trích đọc vào ngày thứ Bảy nhớ Đức Mẹ, trong đó ngài nhấn mạnh đến mối tương quan giữa ông Ađam và Đức Kitô, giữa bà Eva với Đức Maria.  Qua đó, ngài cho thấy có sự đối lập trong hình ảnh một trinh nữ, một khúc gỗ và sự chết. Xưa kia, người trinh nữ là Eva, vì lúc đó nàng chưa biết đến người đàn ông; khúc gỗ là một cây xanh; sự chết là hình phạt Ađam phải chịu, tất cả đều là biểu tượng của sự thất bại. Nhưng này đây xuất hiện một trinh nữ, một khúc gỗ và cái chết; chính là những biểu tượng của cuộc thất bại kia, nay lại trở thành biểu tượng của sự toàn thắng. Thay vì Eva là Đức Maria, thay vì cây biết lành biết dữ là cây thập giá, thay vì cái chết của Ađam là cái chết của Đức Kitô.
Ngoài những hình ảnh đối lập giữa Đức Maria và Eva, các bài đọc còn cho thấy vị trí của Mẹ trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
2.2.               Đức Maria trong kế hoạch của Thiên Chúa
Việc tiên báo dòng dõi người phụ nữ sẽ đạp đầu con rắn khai mở dòng lịch sử cứu độ, trong đó, con Thiên Chúa sẽ đến để chuộc lại những gì đã mất. Hình ảnh một trinh nữ sẽ sinh con đã được tiên báo từ lâu và trở thành dấu hiệu thời của Đấng Mêsia. Ngoài các sách Cựu ước tiên báo điều này, các giáo phụ cũng nhấn mạnh trong các bài giảng của mình. Bài đọc ngày thứ Ba tuần 20 thường niên, trích lại bài giảng của thánh Bênađô, Viện phụ, khẳng định Mẹ được Đấng Tối Cao chuẩn bị và được các tổ phụ loan báo từ trước. Ngài lập luận rằng Đấng tác tạo loài người, khi muốn làm người sinh bởi một con người, thì biết là một người mẹ phải như thế nào mới xứng hợp với mình. Chắc hẳn Người đã tuyển chọn giữa muôn người, hay đúng hơn, đã tạo thành cho mình một người mẹ đúng như thế. Chẳng phải vào phút chót, cũng không phải do tình cờ mà đức Maria  đã được Thiên Chúa tìm ra, nhưng Mẹ đã được tuyển chọn từ muôn thuở, đã được Đấng Tối Cao biết từ trước và chuẩn bị cho mình, được các thiên thần gìn giữ, các tổ phụ dùng hình ảnh tiên báo và các ngôn sứ hứa từ xưa.
Hiến chế Lumen Gentium được trích đọc trong phần chung kính nhớ Đức Mẹ cũng khẳng định từ muôn thuở, theo ý định của Thiên Chúa quan phòng, đức trinh nữ đã được tiền định làm thánh mẫu Thiên Chúa. Thiên chức làm mẹ của Đức Maria đã được tiền định trong nhiệm cục ân sủng, nhiệm cục cứu độ và Mẹ đã đem lòng yêu mến thiết tha mà cộng tác cách đặc biệt vào việc phục hồi sự sống siêu nhiên nơi các linh hồn.
Thực vậy, sự cộng tác của Mẹ được thực hiện qua lời thưa xin vâng mà theo như lời của thánh Bênađô thì đó là câu trả lời mà cả thế giới mong đợi. Trong bài giảng ca ngợi Mẹ đồng trinh của ngài, được trích đọc vào ngày 20 tháng 12, ngài viết “Thần sứ đang chờ câu trả lời của mẹ vì đã đến lúc người phải trở về cùng Thiên Chúa, cả chúng con nữa, chúng con cũng chờ đợi câu trả lời vì chúng con là những kẻ đang phải khốn khổ bởi mang án tội tình”. Giá phải trả cho ơn cứu độ chúng ta được trao vào tay Mẹ. Mẹ mà chấp thuận thì chúng ta được cứu thoát. Chỉ một câu trả lời vắn tắt của Mẹ thôi là chúng ta được tái tạo. Nguyên tổ Ađam đang khóc lóc cùng với dòng dõi của mình, tổ phụ Apraham và vua Đa vít cũng khóc than, các thánh tổ phụ, tổ tiên Mẹ cùng toàn thể thế giới đang hồi hộp chờ câu trả lời của Mẹ. Vâng, chính qua câu trả lời xin vâng của Mẹ mà Đức Kitô đi vào thế giới. Vì thế chúng ta không thể không quan tâm đến mối tương quan giữa Đức Maria với Đức Giêsu.
2.3.               Đức Maria với Đức Giêsu
Nói đến tương quan giữa Đức Maria với Chúa Giêsu trước hết phải đề cập đến biến cố thụ thai. Mặc dù sau lời truyền tin của sứ thần, Đức Maria mới chính thức cưu mang Đức Giêsu trong thân xác mình, thế nhưng các thánh Giáo phụ lại nhấn mạnh rằng trước khi cưu mang Đức Giêsu nơi thân xác Đức Maria đã cưu mang Người trong tâm hồn trước. Đó là chủ đề trong bài giảng của thánh Lêô cả Giáo hoàng và được trích đọc vào ngày 16-07, ngày lễ Đức Mẹ núi Cát minh.
Còn trong ngày lễ Đức Mẹ dâng mình (21-11), bài đọc trích từ bài giảng của thánh Augustinô lại nhấn mạnh việc Đức Maria nhờ lòng tin mà thụ thai. Ngài cho rằng Đức Maria đã thi hành ý Chúa, và vì thế đối với Mẹ, làm môn đệ Đức Kitô thì quan trọng hơn là làm mẹ Đức Kitô. Đức Maria diễm phúc vì đã nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Người gìn giữ sự thật trong tâm trí hơn là cưu mang xác phàm trong lòng. Đức Kitô là sự thật, Đức Kitô là xác phàm. Là sự thật, Đức Kitô ở trong tâm trí Đức Maria, là xác phàm, Đức Kitô ở trong lòng Đức Maria. Việc Đức Kitô ở trong tâm trí thì quan trọng hơn việc Đức Kitô ở trong lòng Mẹ. Từ đó thánh nhân cho thấy diễm phúc của Hội thánh cũng như của mỗi Kitô hữu vì Hội thánh và mỗi Kitô hữu cũng có thể cưu mang Đức Kitô nhờ lòng tin.
Còn thánh Giám mục Athanasiô thì đề cập đến khía cạnh trung gian của Đức Maria. Nhờ có Mẹ mà Ngôi Lời nhận lấy một thân xác và Người hiến dâng thân xác ấy như của riêng mình để chúng ta được hưởng nhờ. Qua Đức Maria, Ngôi Lời nhận lấy bản tính của chúng ta và hiến dâng làm hy tế, đồng thời Người mặc cho chúng ta bản tính của Người. Đó là nội dung được trích đọc trong ngày lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa (01-01). Điều này cũng được thánh Bênađô Viện phụ nói đến trong bài giảng trích đọc vào ngày lễ Mẹ Mân Côi (07-10). Ngài nói nhờ Mẹ làm trung gian mà Ngôi Lời nay trở thành xác phàm.
Các giáo phụ còn đề cập đến tương quan giữa Đức Maria với Đức Giêsu khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. Thực vậy, bài giảng của thánh Viện phụ Bênađô được trích đọc trong ngày lễ kính Mẹ sầu bi (15-09) đã gọi Đức Maria là vị tử đạo trong tâm hồn. Sau khi trút hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu đã không bị lưỡi gươm tàn bạo đâm thâu lòng, nhưng chính lúc đó nó lại đâm thâu lòng Mẹ. Linh hồn của Người chắc chắn không còn ở đó nữa nhưng tâm hồn của mẹ không tránh đâu được. Do vậy, Đức Maria được gọi là tử đạo trong tâm hồn. Điều này đã được tiên báo từ sớm, ngay khi Mẹ dâng Đức Giêsu trong Đền thờ qua lời tiên báo của cụ già Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,35).
Cũng dưới chân thập giá, Đức Giêsu trối ông Gioan cho Đức Mẹ và trao Đức Mẹ lại cho tông đồ Gioan. Hình ảnh này đã được truyền thống hiểu là Đức Giêsu muốn trao Giáo hội cho Thân mẫu mình cũng như trao Thân mẫu mình cho Giáo hội. Chính vì thế chủ đề tiếp theo sẽ là tương quan giữa Đức Maria và Giáo hội.
3.           Đức Maria với Giáo hội
Khi so sánh Đức Maria với Eva, các Giáo phụ đã nêu bật vai trò làm mẹ của Đức Maria  so với vai trò làm mẹ của Eva. Bài giảng của chân phước Viện phụ Enrêđi được trích đọc trong phần chung kính Đức Mẹ cho thấy nhờ Đức Maria, chúng ta đã lãnh nhận sự sống cao quý hơn gấp bội so với sự sống chúng ta đã lãnh nhận từ Eva, vì chính Đức Mẹ đã sinh hạ Chúa Kitô. Thay vì cái cũ chúng ta nhận được cái mới, thay vì hư hoại lại được bất hoại, thay vì tối tăm lại được ánh sáng. Còn chân phước Viện phụ Ghêricô thì nói rằng Eva đúng ra không phải là mẹ thật cho bằng mẹ kế, vì xưa kia bà đã bắt con cái mình lãnh tiền án tử hình trước khi cho chúng được nhìn thấy ánh sáng. Xưa Eva không đáp ứng đúng danh xưng của mình thì nay Đức Maria đã thể hiện hoàn toàn mầu nhiệm, vì cũng như Hội thánh mà người là hình ảnh, Đức Maria là mẹ của những ai được tái sinh để sống mãi. Đó là lời dạy của chân phước được trích đọc trong ngày thứ Bảy nhớ Đức Mẹ.
Đức Maria được gọi là mẹ của chúng ta không chỉ vì tương quan giữa Mẹ với Eva nhưng còn vì tương quan giữa Mẹ với Đức Kitô. Thực vậy, trong bài giảng của chân phước Enrêđi Viện phụ trích đọc vào phần chung kính Đức Mẹ, ngài nói vì Đức Maria là mẹ Đức Kitô nên cũng là mẹ đem lại ơn khôn ngoan, ơn công chính, ơn thánh hóa và ơn giải thoát cho ta. Vì thế người là mẹ chúng ta còn hơn mẹ ruột chúng ta nữa. Do vậy, chính chúng ta phải có bổn phận tôn vinh Mẹ, yêu mến và ca ngợi Mẹ. Chúng ta phải tôn vinh Mẹ vì Mẹ là thân mẫu của chúng ta. Ai không tôn kính người mẹ thì chắc chắn cũng chẳng kính trọng người con.
Như vậy trong tương quan với Eva hay với Đức Kitô, các Giáo phụ nhìn nhận vai trò làm mẹ của Đức Maria đối với Hội thánh. Ngoài ra, giữa Đức Maria và Hội thánh còn có nhiều điểm tương đồng, chính vì thế mà Mẹ được xem là hình ảnh tiên trưng của Hội thánh. Thực vậy, bài đọc trích trong hiến chế Lumen Gentium vào ngày thứ Bảy nhớ Đức Mẹ nói rõ Đức Maria là hình ảnh tiên trưng của Hội thánh trên bình diện đức tin, lòng mến và mối hiệp nhất trọn vẹn với Đức Kitô. Khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện diệu kỳ và noi gương bác ái của Đức Maria, khi trung tín chu toàn thánh ý Chúa Cha, nhờ trung tín lãnh nhận lời Thiên Chúa, chính Hội thánh cũng được làm mẹ. Quả vậy, qua lời rao giảng và qua bí tích Thánh Tẩy, Hội thánh đã sinh hạ những người con để họ được sự sống mới vĩnh cửu; những người con này đã được cưu mang bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và đã được sinh ra bởi Thiên Chúa.
Chân phước Ixaác cũng so sánh Đức Maria với Hội thánh dưới khía cạnh cả hai đều là trinh nữ và cả hai đều là mẹ. Bài giảng của ngài được trích đọc vào ngày thứ Bảy, tuần 2, mùa Vọng cho thấy Đức Maria và Hội thánh, cả hai đều là mẹ và cả hai đều là trinh nữ. Cả hai đều thụ thai do cùng một quyền năng Thánh Thần chứ không phải do xác thịt. Cả hai đều sinh con cho Thiên Chúa Cha. Một người mẹ sinh ra Đấng là Đầu của thân thể mà không mắc tội nào, còn người mẹ kia sinh ra thân thể cho Đầu, nhờ ơn tha thứ mọi tội lỗi. Hơn nữa, điều nói chung về trinh mẫu là Hội thánh cách phổ quát, thì cũng áp dụng riêng cho trinh nữ Maria, và điều nói riêng về trinh mẫu Maria thì cũng hiểu chung về trinh mẫu là Hội thánh.
Ngoài ra, các Giáo phụ cũng nhấn mạnh vai trò trung gian của Đức Maria trong việc Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn phúc lành cho nhân loại. Bài giảng của thánh Xốp-rô-ni-ô được trích đọc trong phần chung về Đức Maria nói rằng nhờ Mẹ mà Chúa Cha đã tuôn đổ phúc lành cho loài người và giải thoát họ khỏi lời chúc dữ xưa. Mẹ đã đem lại phúc lành cho toàn cõi đất và cứu chuộc cõi đất khỏi lời chúc dữ. Nhờ Mẹ mà tổ tiên của Mẹ tìm được ơn cứu độ. Còn thánh Giám mục Ansenmô thì quả quyết nhờ quả phúc từ lòng Mẹ mà tất cả được sống lại với vẻ đẹp nguyên thủy và được ban tặng một hồng ân mới. Nhờ Mẹ đầy ân phúc mà mọi vật trong âm phủ vui mừng vì được giải thoát, mọi vật trên dương gian vui sướng vì được phục hồi. Chính nhờ Người Con vinh hiển do lòng trinh khiết rạng ngời của Mẹ mà mọi người công chính qua đời trước khi Người Con ấy chịu chết, đều hớn hở vui mừng vì được thoát khỏi chốn giam cầm. Đó là nội dung bài giảng của thánh nhân được trích đọc vào ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm (08-12).
Qua các mối tương quan giữa Đức Maria với Thiên Chúa cũng như với Hội thánh, các giáo phụ đã hết lòng ca ngợi các nhân đức của Mẹ. Đó là những lời tán dương xứng đáng với vai trò và vị trí của Mẹ trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.


4.           Hội thánh tán dương Mẹ
Hiến chế Lumen Gentium được trích đọc trong thứ Bảy nhớ Đức Mẹ đã khuyến khích các Kitô hữu hãy ngước mắt hướng nhìn lên Đức Maria như gương mẫu nhân đức rạng ngời cho toàn thể cộng đoàn. Khi sốt sắng kính nhớ và chiêm ngắm Đức Maria trong ánh sáng của Ngôi Lời làm người, Hội thánh kính cẩn tiến sâu hơn vào mầu nhiệm Nhập Thể cao cả và ngày càng nên đồng hình đồng dạng với vị Hôn phu của mình hơn.
Khi chú giải Tin mừng Luca, đoạn Đức Maria thăm bà Elisabét, thánh Giám mục Ambrôsiô mong ước phải chi tâm hồn của Đức Maria ở nơi mỗi người để ngợi khen Đức Chúa. Ước chi thần trí Đức Maria cũng ở nơi mỗi người, để hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa.
Thánh Luy Grignion Monfort thì ca ngợi rằng giữa mọi loài thọ tạo, chỉ có Đức Maria là người đã nên giống Đức Giêsu hoàn toàn nhất. Vì thế trong những cách sùng kính khác nhau, thì lòng tôn sùng đức trinh nữ Maria là phương thế tuyệt hảo để linh hồn được tận hiến và nên giống Đức Giêsu. Ai càng tận hiến cho Mẹ thì càng thuộc về Đức Giêsu Kitô. Đó là nội dung trích trong khảo luận “Lòng sùng kính đích thực đối với đức trinh nữ Maria” được đọc vào ngày lễ của thánh nhân, ngày 28-04.
Trong bài giảng của thánh Syrilô, Giám mục Alexandri tại công đồng Êphêsô, ngài ca ngợi Đức Maria là kho tàng đáng kính của cả hoàn vũ, là ngọn đèn không bao giờ tắt, là triều thiên ân thưởng đức khiết trinh, là vương trượng tượng trưng cho giáo lý chân truyền, là đền thờ không hư nát, là nơi trú ngụ cho Đấng không nơi nào có sức chứa đựng, là mẹ mà vẫn là trinh nữ. Nơi cung lòng trinh khiết thánh thiện, mẹ đã cưu mang Đấng Vô Biên. Nhờ Mẹ, Ba Ngôi chí thánh được tôn vinh và phụng thờ. Nhờ mẹ cây thập giá cao quý được kính tôn và thờ lạy trên khắp địa cầu. Nhờ mẹ trời cao nhảy mừng. Nhờ mẹ, các thiên thần và tổng lãnh thiên thần hân hoan. Nhờ mẹ Maria quỷ chạy trốn. Nhờ mẹ, thọ sinh sa ngã được cất nhắc về trời. Nhờ mẹ, toàn thể thụ tạo vẫn nô lệ tà thần, nay nhận ra chân lý. Nhờ mẹ, các cộng đoàn Hội thánh được thiết lập trên khắp cả địa cầu. Nhờ mẹ, các dân ngoại được ăn năn trở lại. Này đây vạn vật đang mừng rỡ hân hoan. Thiên Chúa duy nhất, được sùng bái và phụng thờ khi chúng ta ca ngợi Đức Maria trọn đời đồng trinh là đền thờ của Thiên Chúa. Đó là nội dung bài giảng được trích đọc trong ngày lễ cung hiến thánh đường Đức Maria ngày 05-08.
Còn trong ngày lễ Đức Maria hồn xác lên trời (15-08), bài đọc trích lại lời trong tông huấn “Thiên Chúa vô cùng đại lượng” của đức Giáo hoàng Piô XII như sau. Ngài nói Đấng đã bảo toàn được nguyên vẹn đức đồng trinh khi sinh con hẳn cũng giữ gìn được cho thân xác mình khỏi mọi hư hoại khi lìa đời. Đấng đã bồng ẵm Tạo Hóa trong lòng mình như bồng ẵm một bé thơ phải được cư ngụ trong nhà Thiên Chúa (trích lời của thánh Gioan Đamat). Vì thế, nếu thân xác đức trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, không bị hư hoại và được đưa về trời, thì điều đó không những xứng hợp với thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, mà còn xứng hợp với thân xác đồng trinh rất thánh của Mẹ nữa. Thân xác đồng trinh của Mẹ hoàn toàn thánh thiện, hoàn toàn thanh khiết và đích thực là nơi Thiên Chúa ngự. Cũng vì thế, thân xác ấy không thể biến thành tro bụi. Vì Đức Maria là Mẹ của Đức Kitô, mà Đức Kitô chính là Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng ban sự sống và sự trường sinh  bất tử, nên Mẹ phải được Đức Kitô làm cho sống và cho thân xác Mẹ được nên giống thân xác người, nghĩa là không bao giờ hư hoại. Đức Maria đã kết hợp một cách huyền nhiệm với Đức Kitô. Mẹ đã hết lòng cộng tác với Đấng Cứu Chuộc và cuối cùng mẹ cũng được chiến thắng tội lỗi và tử thần. Chiến thắng này là phần thưởng cao quý giữa những đặc ân Mẹ đã được. Nhờ đó Mẹ được gìn giữ vẹn toàn, không bị hư nát chút nào trong phần mộ, và như Con của Mẹ, Mẹ chiến thắng tử thần và cả hồn lẫn xác được đưa về hưởng vinh quang cao cả trên trời.
Không những được đưa về trời, Đức Maria còn được tuyên dương với tước hiệu Nữ vương. Trong bài giảng của thánh Amađê, Giám mục Lô-dan, trích đọc vào ngày lễ Đức Maria Nữ vương (22-08), ngài chú giải về tước hiệu này như sau. Vì Mẹ đồng trinh và vì danh dự của Người Con do Mẹ sinh ra, trước hết Mẹ phải cai trị ở dưới đất, rồi sau đó cùng đón nhận cõi trời vinh quang. Mẹ phải được đầy tràn ở dưới đất này, để rồi tiến vào trong sung mãn thánh thiện chốn trời cao. Ở trên trời, mẹ được các thiên sứ tới lui phục vụ, ở dưới đất, mẹ được loài người hầu hạ kính tôn. Các thiên sứ hân hoan nhìn nhận mẹ là Nữ vương của mình, các tông đồ vui mừng nhìn nhận Mẹ là bà chúa của mình và tất cả đều đem lòng đạo đức và yêu mến mà vâng phục Mẹ. Mẹ đang ngự trên lâu đài cao chót vót của các nhân đức và trổi vượt mọi người nhờ ân sủng dồi dào. Nhờ đó Mẹ tuôn đổ thật rộng rãi muôn ơn phúc xuống trên đoàn dân đang tin tưởng và khao khát. Mẹ như nguồn suối cho các thửa vườn thiêng liêng, như giếng đầy nước hằng sống và đem lại sức sống. Nước ấy phát xuất từ núi Ly băng của Thiên Chúa, chảy như thác lũ.
Vào ngày lễ sinh nhật Đức Maria, bài đọc trích từ bài giảng của thánh Anrê, Giám mục Côrêta mời gọi mọi loài thọ tạo hãy đồng ca, hãy nhảy múa và biểu lộ niềm vui thích hợp với ngày lễ. Vì đây là ngày mọi loài trên trời dưới đất cùng nhau hoan hỷ vì thánh điện của Đấng Tạo Thành muôn vật đã được xây lên, và một thọ tạo, vì một lý do mới mẻ và thích đáng, đã được chuẩn bị làm nơi cư trú mới cho Đấng Hóa Công.
Còn bài đọc trong ngày lễ kính trái tim vô nhiễm Đức Mẹ (thứ Bảy sau CN II sau lễ hiện xuống) trích từ bài giảng của thánh Lôrenxô Giuttianô, Giám mục, thì mời gọi các linh hồn trung tín hãy noi gương Đức Maria. Quả thật, để được thanh tẩy về đường thiêng liêng và có thể rửa sạch các vết nhơ tội lỗi, ta hãy bước vào đền thờ tâm hồn của mình. Ở đó Thiên Chúa nhìn đến thiện ý trong mọi việc chúng ta làm, hơn là chính các việc làm.
Giáo hoàng Phaolô VI trong Tông huấn Việc sùng kính Đức Maria đã gọi chuỗi Mân Côi kính Đức Maria là bản tóm lược toàn bộ phúc âm vì qua các mầu nhiệm, chúng ta suy ngắm toàn bộ cuộc đời của Đức Kitô. Đó là nội dung của bài đọc trong ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi của Phụng vụ riêng Dòng Đaminh.
5.           Đức Maria trong Phụng vụ Giờ kinh của Dòng Đaminh
Trong Phụng vụ riêng của Dòng Đaminh, Đức Maria cũng có một chỗ đứng quan trọng. Không kể các thánh lễ cũng như các hình thức đạo đức khác dành cho Mẹ, ở đây cũng chỉ đề cập đến Mẹ trong các bài đọc hai của giờ Kinh Sách mà thôi.
Các bài đọc hai được chọn lựa trong Phụng vụ riêng của Dòng đa phần được trích từ các khảo luận, thư từ, bài giảng của các thánh hay các tu sĩ trong Dòng. Nhìn chung có thể phân thành hai nhóm.
Nhóm thứ nhất đề cập đến mối tương quan của Dòng với Đức Maria. Chẳng hạn bài đọc trong ngày lễ kính chân phước Reginald (12-02) trích từ sách Khai nguyên Dòng Anh Em Giảng Thuyết của chân phước Jordan Saxony kể lại việc Đức Maria hiện ra và xức dầu cho Reginald khi đó đang bị bệnh nặng. Mẹ còn tỏ cho người bộ y phục của Dòng và ngay lập tức người lành bệnh. Ngoài ra, bài đọc trong ngày lễ Đức Mẹ Bảo Trợ Dòng (08-05) trích sách Diễn giải Hiến pháp của cha Humbert Roman nêu lên những lý do để Dòng Đaminh nhận Đức Maria làm bổn mạng riêng của Dòng. Đó cũng là những lý do để thánh Đaminh luôn phó thác Dòng cho Mẹ và tạo nên truyền thống đi kiệu đến trước tòa Mẹ. Cũng trong ngày này, còn có một bài đọc khác trích từ trình thuật của chân phước Xêxilia về thánh phụ Đaminh. Trong đó ngài tường thuật về việc Đức Maria hiện ra với thánh Đaminh đang khi người cầu nguyện và tỏ cho biết là Mẹ chăm sóc Dòng như thế nào (rảy nước thánh cho anh em, che chở anh em dưới áo choàng). Còn bài đọc trong ngày lễ kính chân phước Gioan Đaminh (10-06) thì trích khảo luận của chính thánh nhân về sự bó buộc của Hiến pháp Dòng, trong đó ngài giải thích vì sao chúng ta tuyên khấn vâng phục Đức Mẹ cùng với Thiên Chúa và thánh Tổ phụ. Trong khảo luận, ngài giải thích rõ việc Đức Maria nêu gương cho chúng ta về ba nhân đức Vâng phục, thanh bần và khiết tịnh như thế nào.
Nhóm thứ hai trích các bài chú giải, bài giảng, thư từ của các thánh nhân nhằm ca ngợi Đức Maria. Chẳng hạn bài chú giải của thánh Tôma Aquinô về kinh Kính Mừng được trích đọc vào ngày lễ Mẹ Mân Côi (07-10). Trong đó thánh nhân ca ngợi Đức Maria là Đấng đầy ân sủng và nhờ Mẹ các ân sủng này được tuôn đổ đầy tràn sang mọi người. Các bài đọc dưới đây được đọc trong ngày thứ Bảy kính nhớ Đức Mẹ. Trong đó có kinh nguyện của thánh Catarina Siena ca ngợi Mẹ là đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi, là biển thái bình, là bình chứa đức khiêm nhường. Trong một bức thư khác, thánh nữ gọi đức Maria là nữ vương các tông đồ.
Còn chân phước Humbert Roman khi chú giải Hiến pháp Dòng đã giải thích lý do tôn sùng Đức Maria vào ngày thứ Bảy. Chân phước cũng đề cập đến nhiều việc đạo đức của Dòng Đaminh dành Đức Mẹ. Chẳng hạn vì công tác giảng thuyết, Dòng không ngừng ngợi khen, chúc tụng và rao giảng về Đức Trinh nữ; Việc “đi kiệu” kính Đức Trinh nữ sau giờ Kinh Tối; Sự hiện diện của Đức Mẹ trong lời khấn của tu sĩ Đaminh. Khảo luận của thánh Albert Cả Về bản chất sự thiện thì gọi Mẹ là Sao mai xua tan đám mây của tội lỗi, ưu phiền và lầm lạc. Sách Đồng hồ mặt trời của Đức Khôn ngoan của chân phước Henri Suxô thì gọi Mẹ là niềm hy vọng và là nguồn an ủi của mình. Trong một bài giảng của thánh Vinh sơn Phêriô, ngài dẫn chứng lời của thánh Giám mục Ambrôsiô trong tác phẩm Về các trinh nữ để nói rằng Đức Maria là người đầu tiên thấy Chúa Kitô phục sinh! Và ngài nêu ra ba lý do để biện hộ cho niềm tin này.
6.           Nhận định và bài học
Như vậy ta thấy phụng vụ nói chung và phụng vụ các giờ kinh nói riêng dành cho Đức Maria một vị trí quan trọng. Từ lâu các giáo phụ đã viết những khảo luận, những bài giảng chú giải để ca tụng Đức Maria như là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Cũng theo truyền thống, những bài viết đó đã sớm được đưa vào sử dụng trong phụng vụ, qua đó giúp cho các tín hữu nâng tâm hồn lên tới Chúa nhờ sự cầu bầu của Mẹ.
Quả thật, thánh Bê-đa linh mục khả kính, trong một bài giảng được trích đọc vào ngày lễ Đức Mẹ đi thăm viếng bà Elisabet đã cho biết trong Hội thánh có thói quen tốt lành là hằng ngày mọi người hát thánh thi Đức Mẹ khi nguyện kinh chiều, nhờ đó tâm hồn các tín hữu vừa năng tưởng nhớ đến mầu nhiệm của Chúa mà thêm lòng sốt mến, vừa năng suy niệm các gương lành của Thánh Mẫu mà thêm vững mạnh trên đường nhân đức.
Qua các bài đọc này, ta thấy hình ảnh Đức Maria đã được tiên báo và chuẩn bị từ trong Cựu ước để phục vụ cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Qua lời đáp xin vâng, Đức Maria đã vâng phục và cộng tác với chương trình này. Cuộc đời của Đức Maria là cuộc đời đầy các nhân đức sáng ngời. Chiêm ngưỡng hình ảnh của Mẹ giúp chúng ta học hỏi được nhiều nhân đức như: vâng phục và thi hành thánh ý Thiên Chúa, cưu mang Lời Thiên Chúa trong tâm hồn, khiêm nhường, thánh thiện, trinh khiết, v.v.. Khởi đi từ phụng vụ của Giáo hội, nhiều tư tưởng của các Giáo phụ trở thành nền tảng cho những đề tài suy tư thần học và được tuyên bố thành những tín lý của Giáo hội. Các tư tưởng này được Công đồng Vatican II trích lại rất nhiều trong chương tám của Hiến chế Lumen Gentium, phần nói về Đức Maria.
Chúng ta xác tín rằng sau khi được rước lên trời, Mẹ vẫn chuyển cầu cho chúng ta bằng trăm phương ngàn cách, vẫn tiếp tục xin cho chúng ta những ân huệ cần thiết để hưởng ơn cứu độ muôn đời. Với tư cách là Mẹ, Mẹ lấy tình mẫu tử mà chăm sóc đàn con đang lữ hành và đương đầu với bao nguy hiểm âu lo, cho đến khi được đưa vào quê trời vĩnh phúc. Do vậy, có gì đó như một tình hiếu thảo tự nhiên của lòng tin thúc đẩy chúng ta nhất thiết phải chạy đến kêu cầu danh Mẹ trong mọi nhu cầu và mọi cơn gian nan khốn khó, như trẻ thơ chạy đến nép mình trong lòng mẹ mình vậy.

Tài liệu tham khảo
Vat II. Sacrosanctum Concilium, Bản dịch của Giáo hoàng Học viện thánh Pi-ô X.
Văn kiện trình bày và qui định Các Giờ Kinh Phụng Vụ.
Kinh sách các bài đọc, tập 1,2,3,4. Bản dịch của Nhóm Các giờ Kinh Phụng Vụ. TP HCM, 1999.
Kinh sách các bài đọc – phần riêng dòng Đaminh. Tủ sách Đại kết, 1993.
A.G. Martimort. Bản Việt ngữ Phụng vụ & thời gian, Phụng vụ các giờ. TP HCM: ĐCV Giu-se, 1998.
Nguyễn Thế Thủ, Giờ Kinh Phụng Vụ. TP HCM: ĐCV Giu-se, 2001.



[1] Xc. Vat II, SC, số 90, bản dịch của Giáo hoàng Học viện thánh Pi-ô X.
[2] Xc. Vat II, SC, số 103, nt.
[3] Phần này tham khảo A.G. Martimort, bản Việt ngữ Phụng vụ & thời gian, Phụng vụ các giờ (TP HCM: ĐCV Giu-se, 1998), tr.61-64 và Nguyễn Thế Thủ, Giờ Kinh Phụng Vụ (TP HCM: ĐCV Giu-se, 2001), tr.62-63. 97-98.
[4] Xc. Văn kiện trình bày và qui định Các Giờ Kinh Phụng Vụ, số 141.
[5] Xc. Sđd, số 164.
[6] Xc. Sđd, số 146.