1.
Giới
thiệu chung
Bên cạnh thánh lễ và các Bí tích, Kinh Nhật tụng có một vị trí quan trọng
trong đời sống phụng vụ của Giáo hội. Đây là kinh nguyện công cộng của Giáo Hội,
là nguồn đạo đức và của ăn cho mọi người. Do đó, để việc tham dự giờ kinh đạt kết
quả tốt hơn, việc học hỏi và tìm hiểu các thánh vịnh và các bài đọc là rất cần
thiết.
Đàng khác, trong khi cử hành các mầu nhiệm của Chúa Kitô theo chu kỳ hàng năm,
Giáo hội cũng dành một sự tôn kính đặc biệt đối với Đức Maria, Mẹ Thiên
Chúa, Ðấng đã nối kết với công trình cứu chuộc của Con mình bằng mối dây bất khả
phân ly. Nơi Mẹ, Giáo Hội ngưỡng mộ và tán tụng thành quả tuyệt diệu của công
trình cứu chuộc.
Phụng vụ nói chung và các giờ Kinh Nhật tụng nói riêng dành
cho Mẹ một chỗ đứng quan trọng. Ngoài các ngày lễ cố định dành riêng cho Mẹ theo
chu kỳ trong năm, Mẹ còn được kính nhớ cách đặc biệt vào các ngày thứ Bảy.
Trong phần chung các thánh, phần chung dành cho Đức Maria chỉ đứng sau phần
cung hiến các thánh đường.
Trong hai bài đọc dài của giờ Kinh Sách, bài đọc đầu tiên lấy
từ Kinh Thánh còn bài thứ hai thì trích từ các bài diễn giải của các giáo phụ
hay các thánh.
[3] Việc
đọc các bài chú giải cũng như những bài giảng của các Giáo phụ đã thấy xuất hiện
trong thần vụ những ngày lễ của Phụng vụ Syri cổ thời. Trong truyền thống Hylạp,
người ta đọc bài của các Giáo phụ trong giờ Orthros (sáng sớm). Trong Giáo Hội
La tinh, thì có lẽ thánh Bênêđitô là người đã đưa ra sáng kiến phải đọc những
bài chú giải kinh thánh vào giờ thần vụ ban đêm. Cũng vào khoảng thời gian đó,
đền thờ thánh Phêrô ở Rôma cũng làm như vậy: “
Người ta đọc những bài của các thánh Giêrônimô, Ambrôsiô, và những Giáo
Phụ khác, tùy theo nhu cầu”
.
Tập quán đọc bài giáo phụ này dần dần lan rộng trong giờ kinh của Giáo hội. Cuộc
canh tân của Đức Piô V đã thay đổi sâu xa cuốn bài đọc Giáo phụ của sách nguyện
Rôma, đặc biệc là đã thêm vào những bài của các Giáo phụ Hy Lạp để làm phong
phú hóa tư tưởng Kitô giáo. Trong cuốn các giờ kinh phụng vụ 1971, các bài đọc
Giáo phụ đã được nới rộng đáng kể, một phần vì được đọc mỗi ngày (trừ ngày kính
thánh có bài đọc về thánh ấy) và không giới hạn vào các Giáo phụ nhưng được mở
rộng để đón nhận tất cả những trang sách thiêng có giá trị nhất của các tác giả
Kitô giáo thuộc mọi thời đại.
Có hơn 600 bản văn của 180 giáo phụ và văn sĩ Kitô giáo từ thánh Clemen I (tk
1) đến Công đồng Vaticano II đã được dùng làm bài đọc thứ hai trong giờ Kinh Sách.
Điều này nói lên sự phong phú của các bài giáo huấn trong đời sống phụng vụ của
Giáo hội. Bài đọc Giáo phụ cũng giúp giáo dân hiểu các mùa và lễ Phụng vụ, hơn
thế, còn mở lối cho họ tiến đến kho tàng thiêng liêng vô giá làm thành di sản
quý báu của Hội thánh.
Trong các bài đọc thứ hai này, có rất nhiều khảo luận nói về Đức
Maria với nhiều chủ đề phong phú. Tập họp các chủ đề này ta sẽ có một dòng chảy
xuyên suốt từ vai trò và hình bóng Đức Maria trong Cựu ước cho đến việc cưu
mang và sinh hạ Ngôi lời cũng như vị trí của mẹ trong Giáo hội ngày nay. Các bản
văn trình bày những vấn đề về Thánh mẫu học, Kitô học cho đến Giáo hội học, đặc
biệt là những lời ca tụng Giáo hội dành cho mẹ cũng như những nhân đức mẹ đã thực
hiện trong cuộc sống của mình. Các bài viết này đến từ nhiều nguồn khác nhau.
Không kể các bài đọc một là các bài trích từ Kinh thánh, các bài đọc hai trích
của các Giáo phụ nổi tiếng như Augustinô, Ambrôsiô, Irênê, Bênađô, Gioan Kim khẩu,
Syrilô, Giáo hoàng Lêô cả, Giáo hoàng Piô XII, các thánh Bê-đa khả kính,
Athanasiô, Ansenmô,v.v, cũng như một số bài trích từ các văn kiện của Công đồng
chung Vaticanô II.
Các bài đọc này được đọc trong các ngày lễ kính Mẹ, các ngày
thứ Bảy dành cho Mẹ cũng như các bài trong các ngày thuộc mùa Vọng. Bên cạnh một
số bài nhắc đến Đức Maria một cách gián tiếp, thì phần đông dành riêng cho Mẹ một
cách trực tiếp. Bài viết này nhằm tìm hiểu một số chủ đề qua các bài đọc này và
qua đó cho thấy phần nào vai trò và vị trí của Mẹ trong đời sống của Hội thánh.
2.
Đức Maria
trong chương trình cứu độ
2.1.
Đức Maria
và Eva
Mối tương quan giữa Đức Maria và bà Eva đã được Thánh kinh đề
cập đến ngay từ buổi đầu của lịch sử con người: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và
người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh
vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Từ đó mối tương quan giữa Đức Maria và Eva cũng như mối
tương quan giữa Đức Kitô và Ađam luôn được quan tâm. Trong bài đọc hai ngày thứ
Sáu, tuần thứ 2 mùa Vọng, Giám mục Irênê đã cho thấy sự đối lập giữa Đức Maria
và Eva trong một khảo luận chống lạc giáo của mình. Ngài viết: “Xưa bà Eva bị thần dữ dùng lời lẽ dụ dỗ, đã
trốn tránh Thiên Chúa, vì bất tuân lời Người. Còn nay, Đức Maria được thiên thần
loan báo tin mừng, đã cưu mang Thiên Chúa nhờ tuân phục lời Người. Bà Eva đã bị
dụ dỗ bất tuân phục Thiên Chúa còn Đức Maria thì được khích lệ tuân phục Thiên
Chúa, để trinh nữ Maria trở nên trạng sư cho Eva”. Như vậy, hình ảnh trinh
nữ Maria đối lập với hình ảnh bà Eva trong việc tuân phục Thiên Chúa.
Thánh Pơ-rốc-lô, Giám mục constantinop cũng đã viết trong một
bài giảng của mình và được trích đọc trong ngày thứ Bảy nhớ Đức Mẹ như sau: “Lỗi lầm của Eva đã được xóa bỏ và thứ tha nhờ
sự tinh tuyền của đức trinh nữ Maria”. Như vậy, với sự tuân phục, Đức Maria
đã sửa chữa lỗi lầm bất tuân phục của bà Eva. Ngoài ra, thánh Giám mục Gioan
Kim khẩu còn có một bài giảng nổi tiếng, được trích đọc vào ngày thứ Bảy nhớ Đức
Mẹ, trong đó ngài nhấn mạnh đến mối tương quan giữa ông Ađam và Đức Kitô, giữa
bà Eva với Đức Maria. Qua đó, ngài cho
thấy có sự đối lập trong hình ảnh một trinh nữ, một khúc gỗ và sự chết. Xưa
kia, người trinh nữ là Eva, vì lúc đó nàng chưa biết đến người đàn ông; khúc gỗ
là một cây xanh; sự chết là hình phạt Ađam phải chịu, tất cả đều là biểu tượng
của sự thất bại. Nhưng này đây xuất hiện một trinh nữ, một khúc gỗ và cái chết;
chính là những biểu tượng của cuộc thất bại kia, nay lại trở thành biểu tượng của
sự toàn thắng. Thay vì Eva là Đức Maria, thay vì cây biết lành biết dữ là cây
thập giá, thay vì cái chết của Ađam là cái chết của Đức Kitô.
Ngoài những hình ảnh đối lập giữa Đức Maria và Eva, các bài đọc
còn cho thấy vị trí của Mẹ trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
2.2.
Đức Maria
trong kế hoạch của Thiên Chúa
Việc tiên báo dòng dõi người phụ nữ sẽ đạp đầu con rắn khai mở
dòng lịch sử cứu độ, trong đó, con Thiên Chúa sẽ đến để chuộc lại những gì đã mất.
Hình ảnh một trinh nữ sẽ sinh con đã được tiên báo từ lâu và trở thành dấu hiệu
thời của Đấng Mêsia. Ngoài các sách Cựu ước tiên báo điều này, các giáo phụ
cũng nhấn mạnh trong các bài giảng của mình. Bài đọc ngày thứ Ba tuần 20 thường
niên, trích lại bài giảng của thánh Bênađô, Viện phụ, khẳng định Mẹ được Đấng Tối
Cao chuẩn bị và được các tổ phụ loan báo từ trước. Ngài lập luận rằng Đấng tác
tạo loài người, khi muốn làm người sinh bởi một con người, thì biết là một người
mẹ phải như thế nào mới xứng hợp với mình. Chắc hẳn Người đã tuyển chọn giữa
muôn người, hay đúng hơn, đã tạo thành cho mình một người mẹ đúng như thế. Chẳng
phải vào phút chót, cũng không phải do tình cờ mà đức Maria đã được Thiên Chúa tìm ra, nhưng Mẹ đã được
tuyển chọn từ muôn thuở, đã được Đấng Tối Cao biết từ trước và chuẩn bị cho
mình, được các thiên thần gìn giữ, các tổ phụ dùng hình ảnh tiên báo và các
ngôn sứ hứa từ xưa.
Hiến chế Lumen Gentium
được trích đọc trong phần chung kính nhớ Đức Mẹ cũng khẳng định từ muôn thuở,
theo ý định của Thiên Chúa quan phòng, đức trinh nữ đã được tiền định làm thánh
mẫu Thiên Chúa. Thiên chức làm mẹ của Đức Maria đã được tiền định trong nhiệm cục
ân sủng, nhiệm cục cứu độ và Mẹ đã đem lòng yêu mến thiết tha mà cộng tác cách
đặc biệt vào việc phục hồi sự sống siêu nhiên nơi các linh hồn.
Thực vậy, sự cộng tác của Mẹ được thực hiện qua lời thưa xin
vâng mà theo như lời của thánh Bênađô thì đó là câu trả lời mà cả thế giới mong
đợi. Trong bài giảng ca ngợi Mẹ đồng trinh của ngài, được trích đọc vào ngày 20
tháng 12, ngài viết “Thần sứ đang chờ câu
trả lời của mẹ vì đã đến lúc người phải trở về cùng Thiên Chúa, cả chúng con nữa,
chúng con cũng chờ đợi câu trả lời vì chúng con là những kẻ đang phải khốn khổ
bởi mang án tội tình”. Giá phải trả cho ơn cứu độ chúng ta được trao vào
tay Mẹ. Mẹ mà chấp thuận thì chúng ta được cứu thoát. Chỉ một câu trả lời vắn tắt
của Mẹ thôi là chúng ta được tái tạo. Nguyên tổ Ađam đang khóc lóc cùng với
dòng dõi của mình, tổ phụ Apraham và vua Đa vít cũng khóc than, các thánh tổ phụ,
tổ tiên Mẹ cùng toàn thể thế giới đang hồi hộp chờ câu trả lời của Mẹ. Vâng,
chính qua câu trả lời xin vâng của Mẹ mà Đức Kitô đi vào thế giới. Vì thế
chúng ta không thể không quan tâm đến mối tương quan giữa Đức Maria với Đức
Giêsu.
2.3.
Đức Maria
với Đức Giêsu
Nói đến tương quan giữa Đức Maria với Chúa Giêsu trước hết phải
đề cập đến biến cố thụ thai. Mặc dù sau lời truyền tin của sứ thần, Đức Maria mới
chính thức cưu mang Đức Giêsu trong thân xác mình, thế nhưng các thánh Giáo phụ
lại nhấn mạnh rằng trước khi cưu mang Đức Giêsu nơi thân xác Đức Maria đã cưu
mang Người trong tâm hồn trước. Đó là chủ đề trong bài giảng của thánh Lêô cả Giáo
hoàng và được trích đọc vào ngày 16-07, ngày lễ Đức Mẹ núi Cát minh.
Còn trong ngày lễ Đức Mẹ dâng mình (21-11), bài đọc trích từ
bài giảng của thánh Augustinô lại nhấn mạnh việc Đức Maria nhờ lòng tin mà thụ
thai. Ngài cho rằng Đức Maria đã thi hành ý Chúa, và vì thế đối với Mẹ, làm môn
đệ Đức Kitô thì quan trọng hơn là làm mẹ Đức Kitô. Đức Maria diễm phúc vì đã
nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Người gìn giữ sự thật trong tâm trí hơn là cưu
mang xác phàm trong lòng. Đức Kitô là sự thật, Đức Kitô là xác phàm. Là sự thật,
Đức Kitô ở trong tâm trí Đức Maria, là xác phàm, Đức Kitô ở trong lòng Đức Maria.
Việc Đức Kitô ở trong tâm trí thì quan trọng hơn việc Đức Kitô ở trong lòng Mẹ.
Từ đó thánh nhân cho thấy diễm phúc của Hội thánh cũng như của mỗi Kitô hữu vì
Hội thánh và mỗi Kitô hữu cũng có thể cưu mang Đức Kitô nhờ lòng tin.
Còn thánh Giám mục Athanasiô thì đề cập đến khía cạnh trung
gian của Đức Maria. Nhờ có Mẹ mà Ngôi Lời nhận lấy một thân xác và Người hiến
dâng thân xác ấy như của riêng mình để chúng ta được hưởng nhờ. Qua Đức Maria,
Ngôi Lời nhận lấy bản tính của chúng ta và hiến dâng làm hy tế, đồng thời Người
mặc cho chúng ta bản tính của Người. Đó là nội dung được trích đọc trong ngày lễ
Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa (01-01). Điều này cũng được thánh Bênađô Viện phụ nói
đến trong bài giảng trích đọc vào ngày lễ Mẹ Mân Côi (07-10). Ngài nói nhờ Mẹ
làm trung gian mà Ngôi Lời nay trở thành xác phàm.
Các giáo phụ còn đề cập đến tương quan giữa Đức Maria với Đức
Giêsu khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. Thực vậy, bài giảng của thánh Viện phụ
Bênađô được trích đọc trong ngày lễ kính Mẹ sầu bi (15-09) đã gọi Đức Maria là
vị tử đạo trong tâm hồn. Sau khi trút hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu đã không bị
lưỡi gươm tàn bạo đâm thâu lòng, nhưng chính lúc đó nó lại đâm thâu lòng Mẹ.
Linh hồn của Người chắc chắn không còn ở đó nữa nhưng tâm hồn của mẹ không
tránh đâu được. Do vậy, Đức Maria được gọi là tử đạo trong tâm hồn. Điều này đã
được tiên báo từ sớm, ngay khi Mẹ dâng Đức Giêsu trong Đền thờ qua lời tiên báo
của cụ già Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm
thâu tâm hồn bà” (Lc 2,35).
Cũng dưới chân thập giá, Đức Giêsu trối ông Gioan cho Đức Mẹ
và trao Đức Mẹ lại cho tông đồ Gioan. Hình ảnh này đã được truyền thống hiểu là
Đức Giêsu muốn trao Giáo hội cho Thân mẫu mình cũng như trao Thân mẫu mình cho
Giáo hội. Chính vì thế chủ đề tiếp theo sẽ là tương quan giữa Đức Maria và Giáo
hội.
3.
Đức Maria
với Giáo hội
Khi so sánh Đức Maria với Eva, các Giáo phụ đã nêu bật vai trò
làm mẹ của Đức Maria so với vai trò làm
mẹ của Eva. Bài giảng của chân phước Viện phụ Enrêđi được trích đọc trong phần
chung kính Đức Mẹ cho thấy nhờ Đức Maria, chúng ta đã lãnh nhận sự sống cao quý
hơn gấp bội so với sự sống chúng ta đã lãnh nhận từ Eva, vì chính Đức Mẹ đã
sinh hạ Chúa Kitô. Thay vì cái cũ chúng ta nhận được cái mới, thay vì hư hoại lại
được bất hoại, thay vì tối tăm lại được ánh sáng. Còn chân phước Viện phụ
Ghêricô thì nói rằng Eva đúng ra không phải là mẹ thật cho bằng mẹ kế, vì xưa
kia bà đã bắt con cái mình lãnh tiền án tử hình trước khi cho chúng được nhìn
thấy ánh sáng. Xưa Eva không đáp ứng đúng danh xưng của mình thì nay Đức Maria
đã thể hiện hoàn toàn mầu nhiệm, vì cũng như Hội thánh mà người là hình ảnh, Đức
Maria là mẹ của những ai được tái sinh để sống mãi. Đó là lời dạy của chân phước
được trích đọc trong ngày thứ Bảy nhớ Đức Mẹ.
Đức Maria được gọi là mẹ của chúng ta không chỉ vì tương quan
giữa Mẹ với Eva nhưng còn vì tương quan giữa Mẹ với Đức Kitô. Thực vậy, trong
bài giảng của chân phước Enrêđi Viện phụ trích đọc vào phần chung kính Đức Mẹ,
ngài nói vì Đức Maria là mẹ Đức Kitô nên cũng là mẹ đem lại ơn khôn ngoan, ơn
công chính, ơn thánh hóa và ơn giải thoát cho ta. Vì thế người là mẹ chúng ta
còn hơn mẹ ruột chúng ta nữa. Do vậy, chính chúng ta phải có bổn phận tôn vinh
Mẹ, yêu mến và ca ngợi Mẹ. Chúng ta phải tôn vinh Mẹ vì Mẹ là thân mẫu của
chúng ta. Ai không tôn kính người mẹ thì chắc chắn cũng chẳng kính trọng người
con.
Như vậy trong tương quan với Eva hay với Đức Kitô, các Giáo phụ
nhìn nhận vai trò làm mẹ của Đức Maria đối với Hội thánh. Ngoài ra, giữa Đức Maria
và Hội thánh còn có nhiều điểm tương đồng, chính vì thế mà Mẹ được xem là hình ảnh
tiên trưng của Hội thánh. Thực vậy, bài đọc trích trong hiến chế Lumen Gentium vào ngày thứ Bảy nhớ Đức Mẹ
nói rõ Đức Maria là hình ảnh tiên trưng của Hội thánh trên bình diện đức tin,
lòng mến và mối hiệp nhất trọn vẹn với Đức Kitô. Khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện
diệu kỳ và noi gương bác ái của Đức Maria, khi trung tín chu toàn thánh ý Chúa
Cha, nhờ trung tín lãnh nhận lời Thiên Chúa, chính Hội thánh cũng được làm mẹ.
Quả vậy, qua lời rao giảng và qua bí tích Thánh Tẩy, Hội thánh đã sinh hạ những
người con để họ được sự sống mới vĩnh cửu; những người con này đã được cưu mang
bởi quyền năng Chúa Thánh Thần và đã được sinh ra bởi Thiên Chúa.
Chân phước Ixaác cũng so sánh Đức Maria với Hội thánh dưới
khía cạnh cả hai đều là trinh nữ và cả hai đều là mẹ. Bài giảng của ngài được
trích đọc vào ngày thứ Bảy, tuần 2, mùa Vọng cho thấy Đức Maria và Hội thánh, cả
hai đều là mẹ và cả hai đều là trinh nữ. Cả hai đều thụ thai do cùng một quyền
năng Thánh Thần chứ không phải do xác thịt. Cả hai đều sinh con cho Thiên Chúa
Cha. Một người mẹ sinh ra Đấng là Đầu của thân thể mà không mắc tội nào, còn
người mẹ kia sinh ra thân thể cho Đầu, nhờ ơn tha thứ mọi tội lỗi. Hơn nữa, điều
nói chung về trinh mẫu là Hội thánh cách phổ quát, thì cũng áp dụng riêng cho
trinh nữ Maria, và điều nói riêng về trinh mẫu Maria thì cũng hiểu chung về
trinh mẫu là Hội thánh.
Ngoài ra, các Giáo phụ cũng nhấn mạnh vai trò trung gian của Đức
Maria trong việc Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn phúc lành cho nhân loại. Bài giảng
của thánh Xốp-rô-ni-ô được trích đọc trong phần chung về Đức Maria nói rằng nhờ
Mẹ mà Chúa Cha đã tuôn đổ phúc lành cho loài người và giải thoát họ khỏi lời
chúc dữ xưa. Mẹ đã đem lại phúc lành cho toàn cõi đất và cứu chuộc cõi đất khỏi
lời chúc dữ. Nhờ Mẹ mà tổ tiên của Mẹ tìm được ơn cứu độ. Còn thánh Giám mục Ansenmô
thì quả quyết nhờ quả phúc từ lòng Mẹ mà tất cả được sống lại với vẻ đẹp nguyên
thủy và được ban tặng một hồng ân mới. Nhờ Mẹ đầy ân phúc mà mọi vật trong âm
phủ vui mừng vì được giải thoát, mọi vật trên dương gian vui sướng vì được phục
hồi. Chính nhờ Người Con vinh hiển do lòng trinh khiết rạng ngời của Mẹ mà mọi
người công chính qua đời trước khi Người Con ấy chịu chết, đều hớn hở vui mừng
vì được thoát khỏi chốn giam cầm. Đó là nội dung bài giảng của thánh nhân được
trích đọc vào ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm (08-12).
Qua các mối tương quan giữa Đức Maria với Thiên Chúa cũng như
với Hội thánh, các giáo phụ đã hết lòng ca ngợi các nhân đức của Mẹ. Đó là những
lời tán dương xứng đáng với vai trò và vị trí của Mẹ trong kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa.
4.
Hội
thánh tán dương Mẹ
Hiến chế Lumen Gentium
được trích đọc trong thứ Bảy nhớ Đức Mẹ đã khuyến khích các Kitô hữu hãy ngước
mắt hướng nhìn lên Đức Maria như gương mẫu nhân đức rạng ngời cho toàn thể cộng
đoàn. Khi sốt sắng kính nhớ và chiêm ngắm Đức Maria trong ánh sáng của Ngôi Lời
làm người, Hội thánh kính cẩn tiến sâu hơn vào mầu nhiệm Nhập Thể cao cả và
ngày càng nên đồng hình đồng dạng với vị Hôn phu của mình hơn.
Khi chú giải Tin mừng Luca, đoạn Đức Maria thăm bà Elisabét,
thánh Giám mục Ambrôsiô mong ước phải chi tâm hồn của Đức Maria ở nơi mỗi người
để ngợi khen Đức Chúa. Ước chi thần trí Đức Maria cũng ở nơi mỗi người, để hớn
hở vui mừng trong Thiên Chúa.
Thánh Luy Grignion Monfort thì ca ngợi rằng giữa mọi loài thọ
tạo, chỉ có Đức Maria là người đã nên giống Đức Giêsu hoàn toàn nhất. Vì thế
trong những cách sùng kính khác nhau, thì lòng tôn sùng đức trinh nữ Maria là
phương thế tuyệt hảo để linh hồn được tận hiến và nên giống Đức Giêsu. Ai càng
tận hiến cho Mẹ thì càng thuộc về Đức Giêsu Kitô. Đó là nội dung trích trong khảo
luận “Lòng sùng kính đích thực đối với đức
trinh nữ Maria” được đọc vào ngày lễ của thánh nhân, ngày 28-04.
Trong bài giảng của thánh Syrilô, Giám mục Alexandri tại công
đồng Êphêsô, ngài ca ngợi Đức Maria là kho tàng đáng kính của cả hoàn vũ, là ngọn
đèn không bao giờ tắt, là triều thiên ân thưởng đức khiết trinh, là vương trượng
tượng trưng cho giáo lý chân truyền, là đền thờ không hư nát, là nơi trú ngụ cho
Đấng không nơi nào có sức chứa đựng, là mẹ mà vẫn là trinh nữ. Nơi cung lòng
trinh khiết thánh thiện, mẹ đã cưu mang Đấng Vô Biên. Nhờ Mẹ, Ba Ngôi chí thánh
được tôn vinh và phụng thờ. Nhờ mẹ cây thập giá cao quý được kính tôn và thờ lạy
trên khắp địa cầu. Nhờ mẹ trời cao nhảy mừng. Nhờ mẹ, các thiên thần và tổng
lãnh thiên thần hân hoan. Nhờ mẹ Maria quỷ chạy trốn. Nhờ mẹ, thọ sinh sa ngã
được cất nhắc về trời. Nhờ mẹ, toàn thể thụ tạo vẫn nô lệ tà thần, nay nhận ra
chân lý. Nhờ mẹ, các cộng đoàn Hội thánh được thiết lập trên khắp cả địa cầu.
Nhờ mẹ, các dân ngoại được ăn năn trở lại. Này đây vạn vật đang mừng rỡ hân
hoan. Thiên Chúa duy nhất, được sùng bái và phụng thờ khi chúng ta ca ngợi Đức Maria
trọn đời đồng trinh là đền thờ của Thiên Chúa. Đó là nội dung bài giảng được
trích đọc trong ngày lễ cung hiến thánh đường Đức Maria ngày 05-08.
Còn trong ngày lễ Đức Maria hồn xác lên trời (15-08), bài đọc
trích lại lời trong tông huấn “Thiên Chúa
vô cùng đại lượng” của đức Giáo hoàng Piô XII như sau. Ngài nói Đấng đã bảo
toàn được nguyên vẹn đức đồng trinh khi sinh con hẳn cũng giữ gìn được cho thân
xác mình khỏi mọi hư hoại khi lìa đời. Đấng đã bồng ẵm Tạo Hóa trong lòng mình
như bồng ẵm một bé thơ phải được cư ngụ trong nhà Thiên Chúa (trích lời của
thánh Gioan Đamat). Vì thế, nếu thân xác đức trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
không bị hư hoại và được đưa về trời, thì điều đó không những xứng hợp với
thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, mà còn xứng hợp với thân xác đồng trinh rất thánh
của Mẹ nữa. Thân xác đồng trinh của Mẹ hoàn toàn thánh thiện, hoàn toàn thanh
khiết và đích thực là nơi Thiên Chúa ngự. Cũng vì thế, thân xác ấy không thể biến
thành tro bụi. Vì Đức Maria là Mẹ của Đức Kitô, mà Đức Kitô chính là Thiên
Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng ban sự sống và sự trường sinh bất tử, nên Mẹ phải được Đức Kitô làm cho sống
và cho thân xác Mẹ được nên giống thân xác người, nghĩa là không bao giờ hư hoại.
Đức Maria đã kết hợp một cách huyền nhiệm với Đức Kitô. Mẹ đã hết lòng cộng
tác với Đấng Cứu Chuộc và cuối cùng mẹ cũng được chiến thắng tội lỗi và tử thần.
Chiến thắng này là phần thưởng cao quý giữa những đặc ân Mẹ đã được. Nhờ đó Mẹ
được gìn giữ vẹn toàn, không bị hư nát chút nào trong phần mộ, và như Con của Mẹ,
Mẹ chiến thắng tử thần và cả hồn lẫn xác được đưa về hưởng vinh quang cao cả
trên trời.
Không những được đưa về trời, Đức Maria còn được tuyên dương với
tước hiệu Nữ vương. Trong bài giảng của thánh Amađê, Giám mục Lô-dan, trích đọc
vào ngày lễ Đức Maria Nữ vương (22-08), ngài chú giải về tước hiệu này như sau.
Vì Mẹ đồng trinh và vì danh dự của Người Con do Mẹ sinh ra, trước hết Mẹ phải
cai trị ở dưới đất, rồi sau đó cùng đón nhận cõi trời vinh quang. Mẹ phải được
đầy tràn ở dưới đất này, để rồi tiến vào trong sung mãn thánh thiện chốn trời
cao. Ở trên trời, mẹ được các thiên sứ tới lui phục vụ, ở dưới đất, mẹ được
loài người hầu hạ kính tôn. Các thiên sứ hân hoan nhìn nhận mẹ là Nữ vương của
mình, các tông đồ vui mừng nhìn nhận Mẹ là bà chúa của mình và tất cả đều đem
lòng đạo đức và yêu mến mà vâng phục Mẹ. Mẹ đang ngự trên lâu đài cao chót vót
của các nhân đức và trổi vượt mọi người nhờ ân sủng dồi dào. Nhờ đó Mẹ tuôn đổ
thật rộng rãi muôn ơn phúc xuống trên đoàn dân đang tin tưởng và khao khát. Mẹ
như nguồn suối cho các thửa vườn thiêng liêng, như giếng đầy nước hằng sống và
đem lại sức sống. Nước ấy phát xuất từ núi Ly băng của Thiên Chúa, chảy như
thác lũ.
Vào ngày lễ sinh nhật Đức Maria, bài đọc trích từ bài giảng của
thánh Anrê, Giám mục Côrêta mời gọi mọi loài thọ tạo hãy đồng ca, hãy nhảy múa
và biểu lộ niềm vui thích hợp với ngày lễ. Vì đây là ngày mọi loài trên trời dưới
đất cùng nhau hoan hỷ vì thánh điện của Đấng Tạo Thành muôn vật đã được xây
lên, và một thọ tạo, vì một lý do mới mẻ và thích đáng, đã được chuẩn bị làm
nơi cư trú mới cho Đấng Hóa Công.
Còn bài đọc trong ngày lễ kính trái tim vô nhiễm Đức Mẹ (thứ Bảy
sau CN II sau lễ hiện xuống) trích từ bài giảng của thánh Lôrenxô Giuttianô,
Giám mục, thì mời gọi các linh hồn trung tín hãy noi gương Đức Maria. Quả thật,
để được thanh tẩy về đường thiêng liêng và có thể rửa sạch các vết nhơ tội lỗi,
ta hãy bước vào đền thờ tâm hồn của mình. Ở đó Thiên Chúa nhìn đến thiện ý
trong mọi việc chúng ta làm, hơn là chính các việc làm.
Giáo hoàng Phaolô VI trong Tông huấn Việc sùng kính Đức Maria đã gọi chuỗi Mân Côi kính Đức Maria là bản
tóm lược toàn bộ phúc âm vì qua các mầu nhiệm, chúng ta suy ngắm toàn bộ cuộc đời
của Đức Kitô. Đó là nội dung của bài đọc trong ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi của Phụng
vụ riêng Dòng Đaminh.
5.
Đức Maria
trong Phụng vụ Giờ kinh của Dòng Đaminh
Trong Phụng vụ riêng của Dòng Đaminh, Đức Maria cũng có một chỗ
đứng quan trọng. Không kể các thánh lễ cũng như các hình thức đạo đức khác dành
cho Mẹ, ở đây cũng chỉ đề cập đến Mẹ trong các bài đọc hai của giờ Kinh Sách mà
thôi.
Các bài đọc hai được chọn lựa trong Phụng vụ riêng của Dòng đa
phần được trích từ các khảo luận, thư từ, bài giảng của các thánh hay các tu sĩ
trong Dòng. Nhìn chung có thể phân thành hai nhóm.
Nhóm thứ nhất đề cập đến mối tương quan của Dòng với Đức Maria.
Chẳng hạn bài đọc trong ngày lễ kính chân phước Reginald (12-02) trích từ sách Khai nguyên Dòng Anh Em Giảng Thuyết của
chân phước Jordan Saxony kể lại việc Đức Maria hiện ra và xức dầu cho Reginald
khi đó đang bị bệnh nặng. Mẹ còn tỏ cho người bộ y phục của Dòng và ngay lập tức
người lành bệnh. Ngoài ra, bài đọc trong ngày lễ Đức Mẹ Bảo Trợ Dòng (08-05)
trích sách Diễn giải Hiến pháp của
cha Humbert Roman nêu lên những lý do để Dòng Đaminh nhận Đức Maria làm bổn mạng
riêng của Dòng. Đó cũng là những lý do để thánh Đaminh luôn phó thác Dòng cho Mẹ
và tạo nên truyền thống đi kiệu đến trước tòa Mẹ. Cũng trong ngày này, còn có một
bài đọc khác trích từ trình thuật của chân phước Xêxilia về thánh phụ Đaminh.
Trong đó ngài tường thuật về việc Đức Maria hiện ra với thánh Đaminh đang khi
người cầu nguyện và tỏ cho biết là Mẹ chăm sóc Dòng như thế nào (rảy nước thánh
cho anh em, che chở anh em dưới áo choàng). Còn bài đọc trong ngày lễ kính chân
phước Gioan Đaminh (10-06) thì trích khảo luận của chính thánh nhân về sự bó buộc
của Hiến pháp Dòng, trong đó ngài giải thích vì sao chúng ta tuyên khấn vâng phục
Đức Mẹ cùng với Thiên Chúa và thánh Tổ phụ. Trong khảo luận, ngài giải thích rõ
việc Đức Maria nêu gương cho chúng ta về ba nhân đức Vâng phục, thanh bần và
khiết tịnh như thế nào.
Nhóm thứ hai trích các bài chú giải, bài giảng, thư từ của các
thánh nhân nhằm ca ngợi Đức Maria. Chẳng hạn bài chú giải của thánh Tôma Aquinô
về kinh Kính Mừng được trích đọc vào ngày lễ Mẹ Mân Côi (07-10). Trong đó thánh
nhân ca ngợi Đức Maria là Đấng đầy ân sủng và nhờ Mẹ các ân sủng này được tuôn
đổ đầy tràn sang mọi người. Các bài đọc dưới đây được đọc trong ngày thứ Bảy
kính nhớ Đức Mẹ. Trong đó có kinh nguyện của thánh Catarina Siena ca ngợi Mẹ là
đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi, là biển thái bình, là bình chứa đức khiêm nhường.
Trong một bức thư khác, thánh nữ gọi đức Maria là nữ vương các tông đồ.
Còn chân phước Humbert Roman khi chú giải Hiến pháp Dòng đã giải
thích lý do tôn sùng Đức Maria vào ngày thứ Bảy. Chân phước cũng đề cập đến nhiều
việc đạo đức của Dòng Đaminh dành Đức Mẹ. Chẳng hạn vì công tác giảng thuyết,
Dòng không ngừng ngợi khen, chúc tụng và rao giảng về Đức Trinh nữ; Việc “đi kiệu”
kính Đức Trinh nữ sau giờ Kinh Tối; Sự hiện diện của Đức Mẹ trong lời khấn của
tu sĩ Đaminh. Khảo luận của thánh Albert Cả Về
bản chất sự thiện thì gọi Mẹ là Sao mai xua tan đám mây của tội lỗi, ưu phiền
và lầm lạc. Sách Đồng hồ mặt trời của Đức
Khôn ngoan của chân phước Henri Suxô thì gọi Mẹ là niềm hy vọng và là nguồn
an ủi của mình. Trong một bài giảng của thánh Vinh sơn Phêriô, ngài dẫn chứng lời
của thánh Giám mục Ambrôsiô trong tác phẩm Về
các trinh nữ để nói rằng Đức Maria là người đầu tiên thấy Chúa Kitô phục
sinh! Và ngài nêu ra ba lý do để biện hộ cho niềm tin này.
6.
Nhận
định và bài học
Như vậy ta thấy phụng vụ nói chung và phụng vụ các giờ kinh
nói riêng dành cho Đức Maria một vị trí quan trọng. Từ lâu các giáo phụ đã viết
những khảo luận, những bài giảng chú giải để ca tụng Đức Maria như là mẫu gương
tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Cũng theo truyền thống, những bài viết đó đã sớm
được đưa vào sử dụng trong phụng vụ, qua đó giúp cho các tín hữu nâng tâm hồn
lên tới Chúa nhờ sự cầu bầu của Mẹ.
Quả thật, thánh Bê-đa linh mục khả kính, trong một bài giảng
được trích đọc vào ngày lễ Đức Mẹ đi thăm viếng bà Elisabet đã cho biết trong Hội
thánh có thói quen tốt lành là hằng ngày mọi người hát thánh thi Đức Mẹ khi
nguyện kinh chiều, nhờ đó tâm hồn các tín hữu vừa năng tưởng nhớ đến mầu nhiệm
của Chúa mà thêm lòng sốt mến, vừa năng suy niệm các gương lành của Thánh Mẫu
mà thêm vững mạnh trên đường nhân đức.
Qua các bài đọc này, ta thấy hình ảnh Đức Maria đã được tiên
báo và chuẩn bị từ trong Cựu ước để phục vụ cho chương trình cứu độ của Thiên
Chúa. Qua lời đáp xin vâng, Đức Maria đã vâng phục và cộng tác với chương trình
này. Cuộc đời của Đức Maria là cuộc đời đầy các nhân đức sáng ngời. Chiêm ngưỡng
hình ảnh của Mẹ giúp chúng ta học hỏi được nhiều nhân đức như: vâng phục và thi
hành thánh ý Thiên Chúa, cưu mang Lời Thiên Chúa trong tâm hồn, khiêm nhường, thánh
thiện, trinh khiết, v.v.. Khởi đi từ phụng vụ của Giáo hội, nhiều tư tưởng của
các Giáo phụ trở thành nền tảng cho những đề tài suy tư thần học và được tuyên
bố thành những tín lý của Giáo hội. Các tư tưởng này được Công đồng Vatican II
trích lại rất nhiều trong chương tám của Hiến chế Lumen Gentium, phần nói về Đức
Maria.
Chúng ta xác tín rằng sau khi được rước lên trời, Mẹ vẫn chuyển
cầu cho chúng ta bằng trăm phương ngàn cách, vẫn tiếp tục xin cho chúng ta những
ân huệ cần thiết để hưởng ơn cứu độ muôn đời. Với tư cách là Mẹ, Mẹ lấy tình mẫu
tử mà chăm sóc đàn con đang lữ hành và đương đầu với bao nguy hiểm âu lo, cho đến
khi được đưa vào quê trời vĩnh phúc. Do vậy, có gì đó như một tình hiếu thảo tự
nhiên của lòng tin thúc đẩy chúng ta nhất thiết phải chạy đến kêu cầu danh Mẹ trong
mọi nhu cầu và mọi cơn gian nan khốn khó, như trẻ thơ chạy đến nép mình trong
lòng mẹ mình vậy.
Tài liệu tham khảo
Vat II. Sacrosanctum Concilium, Bản dịch của Giáo hoàng Học viện thánh Pi-ô
X.
Văn
kiện trình bày và qui định Các Giờ Kinh Phụng Vụ.
Kinh
sách các bài đọc, tập 1,2,3,4. Bản dịch của Nhóm Các giờ Kinh Phụng Vụ. TP
HCM, 1999.
Kinh
sách các bài đọc – phần riêng dòng Đaminh. Tủ sách Đại kết, 1993.
A.G. Martimort. Bản Việt ngữ Phụng vụ & thời gian, Phụng vụ các giờ.
TP HCM: ĐCV Giu-se, 1998.
Nguyễn Thế Thủ, Giờ Kinh Phụng Vụ. TP HCM: ĐCV Giu-se, 2001.