Chúng ta đang sống trong một
xã hội đang đề cao khuynh hướng hưởng thụ. Lạc thú đang là đối tượng
được nhiều người ham muốn, thậm chí nhiều người còn cho rằng nền văn
hóa hiện nay là văn hóa hưởng thụ! Chính vì vậy, nhiều người chủ
trương gạt bỏ mọi ràng buộc luân lý về tính dục để chiều theo và
thậm chí, tôn sùng bản năng tính dục. Điều đó đang làm cho xã hội
ngày càng biến chất, con người ngày càng bị tha hóa, những vết
thương đang ngày càng bị khoét sâu nơi cá nhân cũng như gia đình. Hậu
quả của một lối sống buông thả đang tác động ngày càng mạnh mẽ trên
đời sống thể lý, tâm lý cũng như tâm linh của nhiều người.
Do đâu mà có hiện trạng này?
Nếu phân tích kỹ lưỡng ta sẽ thấy có rất nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên,
theo quan điểm của người viết, nguyên nhân chính của hiện trạng này
là con người hôm nay đang đánh mất dần ý nghĩa cao quý của sự khiết
tịnh. Chính vì không nhận thức đủ giá trị cao quý của sự khiết
tịnh hoặc cho rằng khiết tịnh chỉ dành cho ai sống bậc tu trì nên nhiều
người dễ dàng buông thả chính mình. Chính vì vậy bài viết này nhằm
khám phá lại đời sống khiết tịnh như một ơn gọi và bằng cách nào
ta có thể đáp trả lại ơn gọi này.
- Khiết
tịnh, một ơn gọi
Giáo lý Hội thánh Công giáo
khẳng định: “Đức khiết tịnh là một nhân đức luân lý. Nhưng đó cũng là hồng ân
của Thiên Chúa, một ân sủng, một hoa trái của Thánh Thần (x. Gl 5, 22). Chúa
Thánh Thần ban cho người tín hữu sức mạnh để noi theo (x. 1Ga 3, 3) sự thanh
khiết của Đức Ki-tô” (số 2345). Nói đến ơn gọi trước hết ta cần xác
định ba điều: Ai gọi, gọi ai và gọi để làm gì?
- Ai
gọi
Dĩ nhiên ta cần khẳng định
ngay rằng chính Thiên Chúa kêu gọi mỗi người chúng ta sống đức khiết
tịnh. Trong bài giảng Trên Núi, Đức Giê-su đã dành mối phúc thứ sáu
cho những ai “có tâm hồn trong sạch” (Mt 5,8). Tâm hồn là trung tâm của
nhân cách luân lý, cũng chính “từ trong lòng phát xuất những ý định gian tà,
những tội giết người, ngoại tình và tà dâm” (Mt 15, 19). Theo Giáo lý của
Hội thánh thì người có tâm hồn trong sạch là những ai biết dùng trí
khôn và ý chí để sống thánh thiện như Thiên Chúa đòi hỏi, đặc biệt
trong ba lãnh vực: bác ái, khiết tịnh, yêu mến chân lý và gìn giữ
đức tin (x. GLHTCG, số 2518). Như vậy, lời mời gọi hãy “có tâm hồn
trong sạch” cũng đồng nghĩa với lời mời gọi hãy có tâm hồn trinh
khiết. Đây là lời mời gọi xuất phát từ chính Thiên Chúa và được
công khai qua lời nói của Đức Giê-su.
Chỗ khác, Đức Giê-su không
chỉ đồng tình với việc lên án ngoại tình, nhưng Ngài còn đi xa hơn
khi đòi hỏi người ta không được có cái nhìn bất chính (x. Mt 5,
27-28). Cái nhìn bất chính, nghĩa là nhìn với sự ham muốn thì cũng
là ngoại tình trong tư tưởng rồi. Qua đó, Đức Giê-su muốn mời gọi
chúng ta hãy thanh luyện một cái nhìn thanh khiết để xứng đáng là
môn đệ chân chính của Người.
- Gọi
ai
Những lời mời gọi trên của
Đức Giê-su không chỉ dành cho các tông đồ mà thôi nhưng là cho tất cả
những ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su, nghĩa là cho những ai muốn tin
và theo Người. Thực vậy, sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo cũng
khẳng định mỗi người hãy giữ đức khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình. Người
thì trong bậc trinh khiết hay độc thân của đời thánh hiến, người khác thì
trong bậc gia đình hay độc thân, tùy theo luật luân lý xác định. Người có gia
đình được mời gọi giữ đức khiết tịnh trong đời sống vợ chồng, người độc thân thì
giữ đức khiết tịnh khi sống tiết dục. Như vậy, khiết tịnh không phải là
“độc quyền” của những người sống đời dâng hiến như nhiều người lầm
tưởng. Trái lại, khiết tịnh là lời mời gọi dành cho tất cả mọi
người. Ki-tô hữu là người đã “mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3, 27), khuôn mẫu của đời
sống khiết tịnh. Ai tin vào Đức Ki-tô đều được mời gọi sống đời khiết tịnh tùy
theo bậc sống của mình. Thánh Am-rô-xi-ô đã đúc kết lại trong ba hình
thức khiết tịnh như sau: khiết tịnh của bậc hôn nhân, khiết tịnh của người
góa bụa và khiết tịnh của kẻ đồng trinh (x. số 2348-2349).
- Gọi
để làm gì
Câu hỏi thứ ba cũng đồng
nghĩa với câu hỏi khiết tịnh là gì? Tại sao ta phải sống đức khiết
tịnh?
Trước hết cần khẳng định
khiết tịnh là một nhân đức. Là một nhân đức, khiết tịnh là lời mời
gọi nhằm thăng tiến đời sống chứ không phải để hủy diệt hay cấm cản
con người. Khiết tịnh không nhằm hủy bỏ khả năng tính dục nhưng hướng
dẫn bản năng đó theo đòi hỏi của đức ái. Khiết tịnh cũng không phải
là sự ức chế của tính dục nhưng điều khiển những ham muốn tính dục
để hướng đến tình yêu đích thực.
Theo quan điểm
Ki-tô giáo, khiết tịnh không chỉ đơn thuần là khả năng tự chủ bản
năng tính dục vì những đòi hỏi luân lý, nhưng sâu xa hơn, vì con người
được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,26). Thánh ý Thiên Chúa
là muốn cho chúng ta sống thánh thiện để nên thánh, chính vì vậy,
chúng ta hãy xa lánh sự gian dâm hay ô uế (x. 1Tx 4, 3-7). Để thực hiện
được điều này, mỗi người, tùy theo ơn riêng Chúa ban, hãy sống khiết
tịnh trong bậc sống của mình (x. 1Cr 7, 1-9) để được phần thưởng là
sự sống bất diệt (GLHTCG, số 2347).
Hơn nữa, thánh Phao-lô khuyên
mỗi người chúng ta hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô chứ đừng chiều theo
tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng. Mặc lấy Đức Ki-tô cũng có
nghĩa là loại bỏ những việc làm đen tối như chè chén say sưa, chơi
bời dâm đãng để cầm lấy vũ khí của sự sáng (x. Rm 13, 12-14). Mặc
lấy Đức Ki-tô, tức là để cho Đức Ki-tô hướng dẫn và làm chủ toàn
vẹn con người của mình, từ suy nghĩ, ước muốn cho tới hành động. Mặc
lấy Đức Ki-tô là hiến toàn thân cho Thiên Chúa và dùng các chi thể
của mình như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa chứ
không phải để làm điều bất chính, phục vụ tội lỗi (x. Rm 6, 13-14).
Như vậy, giá trị của đức khiết tịnh không phải ở chỗ để cho lý trí
làm chủ các bản năng tính dục con người cho bằng là để Chúa Ki-tô làm chủ tất
cả con người của ta, cả lý trí lẫn bản năng của ta.
- Khiết
tịnh, một lời đáp trả
Như đã trình bày ở trên,
khiết tịnh là một ơn gọi xuất phát từ Thiên Chúa để mời gọi con
người sử dụng thân xác và tính dục đúng mục đích và nhất là để
tôn vinh Thiên Chúa. Là một ơn gọi, khiết tịnh cũng cần có sự đáp
trả của con người. Con người đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa
bằng cách thanh luyện cái nhìn của mình để có thể tôn trọng thân
xác và sử dụng tính dục đúng mục đích.
- Thanh
luyện cái nhìn
Trước hết cần
phải xác định cái nhìn ở đây không đơn thuần chỉ là một tác động
của đôi mắt. Tác động của đôi mắt chỉ là hình thức bên ngoài, là
một bổn phận của giác quan, do đó nó vô thưởng vô phạt. Tính luân lý
của hành vi không nằm ở ánh mắt nhưng nằm ở nội dung bên trong, tức
là động lực hay hệ quả của ánh mắt. Chẳng hạn hành động nhìn
người phụ nữ thì không tốt cũng chẳng xấu, nhưng nếu động lực thúc
đẩy ta nhìn là thõa mãn dục vọng hay việc nhìn đó khơi lên những
ước muốn bất chính thì cái nhìn đó lại trở thành tội. Bởi vậy Đức
Giê-su đã nói, nếu nhìn người phụ nữ “mà thèm muốn” thì thà móc
mắt mà ném đi để khỏi phạm tội. Đó là cái nhìn không trong sạch,
cái nhìn đầy tà tâm, đầy ham muốn, đầy nhục dục. Đức Giê-su nói
nhìn như thế thì cũng chính là ngoại tình ở trong lòng rồi (x. Mt
5,27-29).
Do vậy, để
tránh những ước muốn và những hành động lỗi đức khiết tịnh, chúng
ta cần khởi đi từ việc thanh luyện cái nhìn của mình. Cái nhìn trong
sạch xuất phát từ ý hướng trong sạch, nghĩa là luôn nhắm đến cứu cánh
đích thực của con người là lo tìm kiếm và chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa trong mọi
sự (GLHTCG, số 1752).
Xuất phát từ
ý hướng trong sạch, con người mới có thể có cái nhìn trong sáng, và
nhờ đó kiểm soát được tình cảm và trí tưởng tượng, can đảm khước từ những tư
tưởng dâm ô và làm chủ được các hành động của mình. Nhờ thế ta mới
có thể tôn trọng thân xác mình và thân xác người khác.
- Tôn
trọng thân xác
Như vậy, theo cái nhìn Ki-tô
giáo, con người (bao gồm toàn thể hồn xác) là hình ảnh Thiên Chúa,
thân xác con người là phần thân thể của Đức Ki-tô và là Đền Thờ của
Chúa Thánh Thần. Thân xác con người không phải để gian dâm, mà để
phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Dó đó, chúng ta có bổn
phận phải tôn vinh Thiên Chúa nơi chính thân xác chúng ta (x. 1Cr
6,12-20).
Chính vì thế, dù sống đời
độc thân hay trong tương quan gia đình, mỗi người tín hữu đều được mời
gọi phải tôn trọng thân xác. Với người sống đời độc thân, họ không
được phép sử dụng thân xác theo sở thích, không được làm thân xác
mình bị tha hóa (như thủ dâm). Cũng vậy, họ được mời gọi tôn trọng
thân xác người khác như là tôn trọng thân xác của chính mình vậy. Hai
điều trên cũng được áp dụng cho những người sống trong tương quan vợ
chồng. Hơn nữa, họ còn được mời gọi tôn trọng thân xác người bạn
đời của mình nữa. Là vợ chồng, điều đó không có nghĩa là họ được sử
dụng tính dục theo ý riêng khác với mục đích Thiên Chúa mong muốn. Tóm
lại, Thiên Chúa và Giáo hội luôn mời gọi mỗi người hãy sử dụng thân
xác để tôn vinh Thiên Chúa và xây dựng cho nhau.
- Sử
dụng tình dục đúng mục đích
Trước hết, Giáo hội khẳng
định “Những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng
đều cao quý và chính đáng. Được thi hành cách thực sự nhân linh, những hành vi ấy
biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau nhờ đó hai người làm cho nhau thêm
phong phú trong hoan lạc và biết ơn” (x. GS 49, 2). Như vậy, những hành vi
tình dục trong quan hệ vợ chồng là điều chính đáng. Thế nhưng, vấn
đề đặt ra là trong mức độ nào thì những hành vi này là chính đáng?
Qua lời dạy của hiến chế Gaudium et Spes của công đồng Vaticanô
II vừa nêu trên (và sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo trích lại ở
số 2362), ta thấy chỉ những hành vi nào thực hiện sự kết hợp “thân
mật và thanh khiết” và được thi hành cách “thực sự nhân linh” mới là
những hành vi cao quý và chính đáng. Đó mới thực sự là những hành
vi diễn tả tình yêu vợ chồng và hướng đến mục đích sinh sản và
giáo dục con cái (GLHTCG, số 2353). Đây cũng chính là mục đích cao cả
của tình dục trong đời sống hôn nhân. Nếu ta sử dụng khả năng tình
dục ngoài đời sống vợ chồng hay nếu ta ham muốn hưởng thụ tình dục
cách vô độ thì nó trở thành sai trái vì nhằm thỏa mãn bản thân chứ
không nhằm mục đích truyền sinh và kết hợp trong tình yêu.
Thực ra, đức mến phải là linh hồn
của mọi nhân đức. Dưới ảnh hưởng của đức mến, đức khiết tịnh là trường dạy tự
hiến. Người sống khiết tịnh chỉ thực hiện hành vi tính dục vì mục đích
trên như một sự tự hiến cho nhau trong tình yêu. Qua đó, họ trở thành
nhân chứng của Thiên Chúa trung tín và yêu thương (GLHTCG, số 2346).
Tóm lại, đức khiết tịnh không
phải là một điều tiêu cực nhưng là một nhân đức, một ơn gọi dành cho
tất cả mọi người. Sống đức khiết tịnh là sống một sự tự do khỏi
những ham muốn của dục vọng để hướng đến những mục đích cao quí
hơn. Sống khiết tịnh là thể hiện một tình yêu trọn vẹn, một đức ái
hoàn hảo theo gương Đức Ki-tô. Sống khiết tịnh là một lời chứng cho
một đức tin kiên vững vào tình yêu và sự trung tín của Thiên Chúa. Để
đáp trả lại lời mời gọi cao quý nhưng cũng đầy thách thức này, mỗi
người cần gia tăng cầu nguyện để xin Chúa cho ta đủ ý thức, đủ can
đảm và đủ yêu thương đế sống chứng nhân cho Chúa trong thời đại này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét