Thứ Ba, 19 tháng 4, 2016

CON ĐƯỜNG VÀ ĐÍCH ĐẾN

CON ĐƯỜNG VÀ ĐÍCH ĐẾN 
Thứ Ba tuần IV Phục Sinh (Ga 12,44-50)
Đi từ cuộc sống: con đường là cái trước mắt, đích đến thuộc về tương lai. Con đường có nhiều sự lựa chọn nhưng đích đến chỉ có một. Con đường có thể thay đổi nhưng đích đến thì không. Đối diện với con đường ta có thể mệt mỏi nhưng hướng nhìn về đích đến sẽ cho ta niềm hy vọng.
Lời Chúa soi đường: Đức Giêsu nói Ngài là đường dẫn ta về Chúa Cha. Những gì Ngài đã nói và đã làm đều nhân danh Chúa Cha và xuất phát từ Cha (Ga 12, 49). Con đường mang tên Giêsu cũng có nhiều lựa chọn khác nhau tùy theo bậc sống và hoàn cảnh của mình nhưng đích đến cũng chỉ là một. Con đường Giêsu cũng có lúc thăng lúc trầm nhưng đích đến vẫn là Cha Nhân Lành. Đi trên con đường Giêsu, hiện tại ta có thể mệt mỏi, vất vả vì phải chiến đấu và từ bỏ liên tục nhưng con đường đó chắc chắn dẫn ta đến sự sống muôn đời.
Cảm nhận tình thương: Cha tôi đã ban chúng cho tôi và không một ai có thể cướp chúng khỏi tay tôi (x Ga 10,29). Thiên Chúa yêu thương, chọn gọi và gìn giữ mỗi người chúng ta. Trên đi trên con đường Giêsu chúng ta sẽ không sợ bị lạc, cũng không sợ bị ai bắt bởi có Thiên Chúa luôn gìn giữ.

Dấn thân hành động: Xin cho chúng con luôn trung kiên để đi trọn con đường mang tên Giêsu và đến được cùng đích cuộc đời là kết hiệp cùng Thiên Chúa là Cha giàu Lòng thương xót.

Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2016

THẦY CÓ LỜI BAN SỰ SỐNG

THỨ BẢY TUẦN III PS (Ga, 6, 60-69)
Đi từ cuộc sống: Lời Chúa vẫn còn khó hiểu đối với nhiều người thời nay. Có những lời cũng dễ hiểu nhưng sao trần trụi quá, cụ thể và quyết liệt quá. Nghe mà không thể đón nhận được. Có những người dựa vào một hai câu Lời Chúa để hiểu theo nghĩa đen rồi dùng nó châm chọc, kích bác Chúa và Giáo hội. nhưng cũng có những người tuy không hiểu nhiều nhưng sẵn sàng đón nhận vì đơn giản đó là Lời Chúa.
Lời Chúa soi đường: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì sẽ có sự sống đời đời”. Lời rất thật, rất cụ thể nhưng cũng rất chân thành. Thật và cụ thể đến nỗi có các môn đệ đã không thể chịu nỗi và phải rút lui. Nhưng trái lại, Phêrô hùng hồn tuyên bố: “bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai, vì chỉ có Thầy mới có Lời ban sự sống”. Chúa Giêsu khẳng định, không ai có thể đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn.
Cảm nhận tình thương: Để hiểu Lời Chúa, chúng ta không chỉ cậy dựa vào trí khôn mà thôi nhưng trước hết là nhờ ơn Chúa. Nhiều người trong chúng ta có lẽ thua kém người đời rất nhiều xét về mặt tri thức. Thế nhưng, tạ ơn Chúa vì chúng ta không gặp khó khăn khi đón nhận Lời Chúa.

Dấn thân hành động: với lòng khiêm nhường, chúng ta xin Chúa mở trí để mỗi ngày càng thêm hiểu biết và sẵn sàng đón nhận Lời Chúa hơn.

TƯƠNG QUAN GIỮA MỤC TỬ VÀ ĐOÀN CHIÊN

Chúa nhật IV Phục Sinh
TƯƠNG QUAN GIỮA MỤC TỬ VÀ ĐOÀN CHIÊN
Bài Tin Mừng hôm nay rất ngắn gọn nhưng cho ta một cái nhìn đầy đủ và sống động về tương quan giữa mục tử và đoàn chiên. Mục tử thì biết chiên của mình và ban cho chiên sự sống đời đời. Phần chiên thì nghe tiếng mục tử và theo mục tử. Nếu từ hai phía đều thực hiện đúng như thế thì chiên sẽ không bị diệt vong và không bị cướp mất khỏi tay mục tử.
1. Mục tử biết chiên và ban cho chiên sự sống
Nếu nhìn từ bên ngoài thì chiên có vẻ giống nhau nhưng thực ra chúng rất khác. Người ngoài có thể không phân biệt được nhưng chủ nhân thì sẽ nhận ra ngay. Người mục tử (chủ nhân) thì khác với người làm thuê. Người làm thuê có thể cũng biết chiên nhưng để cho chiên được “sống và sống dồi dào” thì người làm thuê không thể bằng người mục tử. Người mục tử thì sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên khi sói đến trong khi người làm thuê thì sẽ bỏ chạy.
Hơn nữa, biết ở đây không chỉ đơn thuần là nhận biết, là phân biệt đúng sai. Biết theo Kinh Thánh còn có nghĩa là thân mật và gần gũi. Chẳng hạn như vợ chồng biết nhau, đôi bạn biết nhau. Thánh sử Gioan còn dùng động từ biết theo một ý nghĩa rất đặc biệt nữa. Đó là cùng một lòng một ý với nhau.
Như thế, mục tử biết chiên không chỉ là sự nhận biết chung chung nhưng là biết rõ từng con một. Không chỉ là biết theo bề ngoài nhưng là có sự thân mật và gần gũi. Mục tử lý tưởng là người biết về gia cảnh, biết những tâm tình, những ưu tư lo lắng của chiên. Mục tử cần biết chiên của mình theo cái nhìn của thánh Gioan, nghĩa là cùng cảm thông chia sẻ với họ, cùng vui với những niềm vui, buồn đau với những buồn đau của chiên.
Có biết như thế, người mục tử mới có thể ban cho chiên sự sống đích thực. Sự sống ở đây không có nghĩa về vật chất mà thôi nhưng còn là sự sống tinh thần, sự sống tâm linh của con chiên. Sự sống này những con chiên không thể ban cho nhau, có chăng, chiên chỉ giúp nhau để có thể đón nhận sự sống thần linh mà mục tử thay mặt cho Thiên Chúa để ban phát.
2. Chiên nghe tiếng và đi theo mục tử
Trước hết cần nói ngay, nghe tiếng và đi theo hoàn toàn không có nghĩa thụ động. Để nghe tiếng, chiên cần chủ động lắng nghe và chọn lọc. Để đi theo, chiên cần dứt khoát từ bỏ những gì không phù hợp hay không cần thiết. Đó là một quá trình đòi hỏi phải lựa chọn và tự quyết định chứ không phải ép buộc.
Nếu mục tử biết chiên của mình thì sẽ có những lời chia sẻ, hướng dẫn, dạy dỗ thích hợp và hữu ích. Trái lại, nếu chiên biết lắng nghe thì sẽ phân biệt được đâu là tiếng của mục tử mình và đâu là tiếng của sói dữ. Nếu chiên biết lắng nghe và làm theo thì sẽ tìm tới được mạch nước trong lành và sẽ được sống dồi dào. Ngược lại, nếu chiên không biết lắng nghe và làm theo tiếng mục tử thì nguy cơ sẽ rơi vào cạm bẫy của sói dữ. Vì mục tử có khả năng ban cho chiên sự sống đời đời nên nếu chiên đi theo mục tử thì sẽ được sự sống đó.
Ngày nay, tiếng của mục tử đang bị lạc lỏng giữa rất nhiều âm thanh khác. Những âm thanh khác đó đang rất hấp dẫn và có nguy cơ kéo đàn chiên đi xa cánh đồng cỏ. Đó là tiếng của tiền bạc, của công danh sự nghiệp, của học hành. Người lớn thích ở nhà theo dõi các bộ phim dài tập hơn là quy tụ nhau để đọc kinh. Giới trẻ thích chăm lo cho phần xác hơn phần hồn. Thiếu nhi mê game, facebook hơn là học giáo lý. Những âm thanh đó không hẳn là xấu nhưng nếu ta không làm chủ bản thân, không biết chọn lọc thì dần dần nó sẽ kéo ta ra khỏi đồng cỏ xanh tươi.
Thiên Chúa chính là Mục Tử đích thực. Nếu chúng ta biết chọn lắng nghe và quyết định đi theo Người. Không ai có thể cướp chúng ta khỏi tay Người và Người sẽ không để ta phải diệt vong.

Ước mong mỗi người trong Giáo xứ chúng ta luôn tín thác vào Mục tử nhân lành là Đức Giêsu Kitô. Ta cũng xin cho Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục và Linh mục luôn là những hình ảnh sống động và trung thực của Mục tử nhân lành, để đoàn chiên được giao cho các ngài chăm sóc luôn được sống và sống dồi dào. Amen.

Thứ Tư, 13 tháng 4, 2016

CẢM NGHIỆM VÀ CHIA SẺ LÒNG THƯƠNG XÓT

Chúa nhật II Phục sinh – Chúa nhật Lòng Thương Xót
CẢM NGHIỆM VÀ CHIA SẺ LÒNG THƯƠNG XÓT
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Giáo hội đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa. Chúa nhật hôm nay lại được gọi là Chúa nhật của Lòng Thương Xót. Vì vậy, đây quả là dịp đặc biệt để chúng ta chiêm ngắm Lòng Thương Xót Chúa đối với Giáo hội cũng như đối với mỗi người chúng ta.
Bài đọc một hôm nay trích từ sách Công vụ Tông Đồ cho ta thấy Lòng Thương Xót của Chúa được thực hiện qua bàn tay của các Tông Đồ: “nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông Đồ” (Cv 5,22). Bệnh nhân từ khắp nơi được đưa đến để ít ra nhờ cái bóng của Phêrô phủ lên cũng sẽ được lành. Chúa Giêsu tuy không còn hiện diện cách thể lý nhưng ân sủng và Lòng Thương Xót của Ngài vẫn tiếp tục hoạt động qua các Tông Đồ. Những dấu lạ điềm thiêng vẫn tiếp tục được thể hiện, thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa để bày tỏ Lòng Thương Xót Chúa cũng như củng cố đức tin cho cộng đoàn tiên khởi nhỏ bé đang dần hình thành.
Lòng Thương Xót Chúa còn được thể hiện cách đặc biệt trong bài Tin Mừng. Trong đêm Đức Giêsu bị bắt, tình trạng các Tông Đồ có thể nói là thê thảm. Các ông phân tán mỗi người mỗi nơi. Kẻ ở gần thì phản bội, người theo chân Chúa từ xa xa thì chối bỏ, người thì tháo chạy thoát thân. Sau những ngày đau thương đó, có lẽ các ông đang mang trong mình những mặc cảm: mặc cảm vì đã bỏ thầy, đã chối Thầy.
Thế rồi, Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến, đứng giữa các ông. Người không hề quở trách, cũng chẳng có ý nhắc lại chuyện cũ. Trái lại, người chào cách thân tình: Bình an cho anh em! Đối với Người, các môn đệ vẫn là những người anh em yêu quý. Không những không nhắc lại chuyện cũ, Người còn tin tưởng giao cho các ông nhiệm vụ quan trọng: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Vì biết đây là nhiệm vụ khó khăn nên Người không để các ông cô độc. Người thổi hơi để ban Thánh Thần cho các ông. Tất cả những thái độ, lời nói, hành động của Đức Giêsu đối với các Tông Đồ đều bày tỏ Lòng Thương Xót của Ngài đối với các ông.
Với Lòng Thương Xót, Đức Giêsu nhìn ra hoàn cảnh của các môn đệ để ban ơn bình an và tha thứ. Ngài cảm thông và trao cho các ông cơ hội để làm lại cuộc đời. Lòng Thương Xót gàn gắn lại những đổ vỡ trong quá khứ và mở ra một tương lai. Lòng thương Xót nối lại tình Thầy trò và gắn kết nghĩa anh em. Lòng Thương Xót quên đi những lỗi lầm và thiếu sót của người khác.
Anh chị em thân mến, Chúa nhật thứ hai Phục sinh, chúng ta được mời gọi cảm nghiệm Lòng Thương Xót Chúa đồng thời chia sẻ Lòng Thương Xót cho nhau.
Chúng ta hãy dành ít phút tĩnh lặng để nhớ lại xem đã bao lần ta lỗi phạm với Chúa. Trong đời sống, có thể ta không công khai chối Chúa như Phêrô nhưng chắc cũng nhiều lần ta né tránh tuyên xưng Chúa. Ta không đến nỗi bán Chúa như Giuđa nhưng chắc cũng nhiều lần quay lưng lại với tình yêu Chúa  dành cho ta. Ta không đến nỗi trút bỏ tấm áo để chạy trốn như người môn đệ trong vườn Giêtsêmani nhưng chắc cũng có lần trốn tránh lời mời gọi dấn thân của Chúa. Thế nhưng, như Chúa đã tỏ lòng thương xót với các Tông Đồ thì Chúa cũng tỏ lòng thương xót với chúng ta. Có thể như các tông đồ, chúng ta mặc cảm về những tội lỗi, thiếu sót của mình nhưng qua Bí Tích Hòa Giải, Chúa sẽ tha thứ. Chúa sẽ không nhắc chuyện cũ nhưng tin tưởng và trao cho ta cơ hội để làm lại cuộc đời. Vì thế ta hãy cảm tạ Chúa vì Ngài luôn bày tỏ Lòng Thương Xót cho chúng ta.
Một khi đã cảm nghiệm Lòng Thương Xót của Chúa, chúng ta cũng được mời gọi bày tỏ lòng thương xót cho nhau. Đừng gán mác cho nhau theo những lỗi lầm trong quá khứ của họ. Hãy tin tưởng và trao cho nhau cơ hội làm lại cuộc đời. Đừng nhìn nhau với cái nhìn oán hờn, giận dữ hay trách móc nhưng hãy cảm thông và giúp nhau mở ra những tương lai. Hơn lúc nào hết, chúng ta đang được mời gọi sống khẩu hiệu của Năm Thánh Lòng Thương Xót: đó là hãy “Thương Xót như Chúa Cha” (Lc 6,36).  


TẢNG ĐÁ ĐÃ LĂN RA MỘT BÊN

Chúa nhật phục sinh
TẢNG ĐÁ ĐÃ LĂN RA MỘT BÊN
Thân xác tan nát của Đức Giêsu được chôn trong huyệt đá, có tảng đá to lấp cửa mồ. Tảng đá che lấp cửa mồ là hình ảnh của thất bại, của quá khứ. Tảng đá ngăn cách giữa sự sống và sự chết. Tảng đá phân cách giữa ánh sáng và bóng tối. Tảng đá che lấp niềm hy vọng.
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, các bà ra mộ”. Không biết đêm hôm trước các bà có ngủ được không sau bao biến cố đau thương? Nhưng có cảm tưởng bước chân buổi sáng sớm của các bà có phần vội vả và hồi hộp. Vội vả để gặp lại Thầy thân thương, dù chỉ là cái xác không hồn. Hồi hộp vì không biết thân xác Thầy đã ra như thế nào?
Nhưng không! Thân xác Thầy đâu còn đây nữa! Tảng đá đã được lăn khỏi mộ. Các bà hoang mang lo lắng, chưa hiểu chuyện gì. Nhưng rồi các bà sẽ được giải thích cho biết. Người sống không còn ở giữa kẻ chết. Tảng đá kia dù to lớn cũng đâu đủ sức ngăn cản Thầy. Thất bại đã lui vào quá khứ. Tương lai với ngôi mộ trống mở ra nhiều huyền nhiệm. Sự sống và sự chết không còn bị ngăn cách bởi tảng đá nhưng được nối liền bởi ánh sáng phục sinh. Tảng đá không còn ngăn cách ánh sáng chiếu soi vào mọi  ngỏ ngách của cuộc sống. Niềm hy vọng được mở ra cho mọi kẻ đang an giấc ngàn thu.
Anh chị em thân mến, hình ảnh tảng đá đã được lăn khỏi mộ liên hệ gì đến cuốc sống của anh chị em?
Chúa đã phục sinh. Tảng đá ngăn cách cửa mộ không còn. Thế nhưng nhiều khi ta vẫn còn giữ lại những tảng đá vô hình ngăn cách ta đến với Chúa và với nhau.
Tảng đá vô hình ngăn cách ta đến với Chúa: đó là sự hoài nghi, thất vọng, dửng dưng, vô ơn. Đó là ham muốn những sự thuộc về hạ giới. Mãi mê tìm kiếm danh vọng, tiền bạc hay lạc thú trần gian.  
Tảng đá vô hình ngăn cách chúng ta đến với nhau: đó là sự ganh tỵ, hiềm thù, ghen ghét, giận hờn, nói hành nói xấu, v.v..
Tảng đá vô hình giữ chặt ta trong đời sống cũ, đời sống của xác thịt, đó là: “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ say sưa” (Gl 5,19-21).
Chúa đã sống lại. Tảng đá đã được lăn ra một bên. Chúng ta cũng được mời gọi đóng đinh tính xác thịt vào thập giá Chúa để mặc lấy hoa trái của Thần Khí, đó là: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23).
Tảng đá đã được lăn ra một bên để chúng ta bước ra khỏi chốn âm u của cõi chết mà tiến vào nơi tràn ngập ánh sáng Lòng Thương Xót Chúa. Chúng ta được mời gọi bước ra khỏi đời sống cũ để bước vào đời sống mới. Bước ra khỏi ách nô lệ tội lỗi để đón nhận sự sống mới trong Chúa Phục sinh.
Anh chị em rất thân mến! Chúa đã Phục sinh. Hòn đá đã lăn ra khỏi mộ. Chúng ta không thể giữ mãi nếp sống cũ. Chúng ta đã được tái sinh trong Bí tích Thanh Tẩy. Chúng ta đã mặc lấy Đức Kitô Phục sinh. Hình ảnh cây nến phục sinh nhắc chúng ta nhớ đến lời mời gọi loan báo Tin Mừng Phục sinh. Giống như các Tông đồ, giống như các phụ nữ trong Tin Mừng, chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Đấng Phục sinh.

Xin Đấng Phục sinh ban ơn cho mỗi người chúng con, để chúng con luôn ý thức trách nhiệm làm chứng của mình. Xin cho lời nói và đời sống chúng con, góp phần mang ánh sáng Phục sinh Chúa chiếu tỏa đến mọi người. Nhờ đó, tất cả mọi người đều cảm nhận được ánh sáng của Lòng Thương Xót Chúa. Amen.

CHÚA NHẬT LỄ LÁ

CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM C
Anh chị em thân mến,
Chúa nhật lễ Lá hôm nay, Giáo hội tưởng niệm lại cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Qua nghi thức rước lá, chúng ta bắt đầu khai mạc tuần Thánh, tuần lễ ghi đậm dấu ấn những ngày cuối cùng của Chúa Giêsu ở trần gian này. Đây là biến cố trọng đại nhất trong năm Phụng vụ, bởi qua biến cố này, Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ mà Ngài đã hứa từ xa xưa.
Hình ảnh dân chúng cởi áo choàng trải ra đường, bẻ cành lá hai bên đường và tung hô náo nhiệt: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa” cho ta cảm tưởng họ đang chào đón một vị vua đầy vinh quang trần thế. Thế nhưng, về phía Đức Giêsu, Người khiêm tốn ngồi trên lưng con lừa con, tiên báo trước một hình ảnh trái ngược. Vinh quang trần thế chẳng thấy đâu ngoài tấm thân tan nát da thịt. Vâng, vinh quang Người có được không thuộc trần thế này nhưng là vinh quang vĩnh cửu sau khi đã trải qua những đau khổ.
Tại sao Thiên Chúa lại chọn con đường đau khổ như thế?
Các bài đọc hôm nay phần nào cho ta câu trả lời.
Bài đọc một giới thiệu cho ta thấy hình ảnh người Tôi Tớ đau khổ. Người Tôi Tớ này luôn sống theo đường lối Thiên Chúa. Người Tôi Tớ này tự nguyện đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ, người không che mặt đi. Tại sao người Tôi Tớ này lại cam chịu như thế? Thưa, vì ông tin có Thiên Chúa phù trợ. Hơn nữa, ông tự nguyện đón nhận tất cả là để cảm thông, an ủi và chia sẻ với những ai lâm cảnh tương tự.
Qua hình ảnh người Tôi Tớ đau khổ, ngôn sứ Isaia tiên báo trước hình ảnh Đức Giêsu, Đấng Vô Tội nhưng tự nguyện bị đánh đập, bị sỉ nhục và sau cùng bị giết chết. Nhờ bản thân đã chịu qua tất cả, nên Đức Giêsu thấu hiểu và đồng cảm với bao nhiêu con người đang phải chịu đau khổ, đang bị đối xử bất công và bạo lực như thế.
Tất cả những gì ngôn sứ Isaia tiên báo đều ứng nghiệm nơi bản thân Đức Giêsu như ta thấy trong bài Thương Khó. Những gì Đức Giêsu đã chịu trong cuộc Thương Khó không nhằm tôn vinh đau khổ nhưng để cứu chuộc và trở nên nguồn ơn cứu độ cho chúng ta.
Bài trích thư của thánh Phao-lô Tông đồ gửi các tín hữu Phi-lip-phê là một áng văn đẹp ca tụng con đường khiêm hạ của Đức Giêsu. Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã trút bỏ vinh quang Thiên Chúa để mặc lấy thân phận phải chết của con người. Không những thế, trong thân phận con người, Đức Giêsu còn chịu mọi đau đớn nơi thân xác, mọi đắng cay sỉ nhục trong tinh thần và cao điểm là cái chết trên thập giá. Vì Đức Giêsu đã tự nguyện vâng lời Chúa Cha để đi con đường thập giá nên Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Anh chị em thân mến,
Nếu như trong Tông sắc năm Thánh về Lòng Thương Xót Chúa, Đức Thánh Cha Phanxicô gọi Đức Giêsu là “Dung Nhan Lòng Thương Xót Chúa” thì chính cuộc Thương Khó là lúc Lòng Thương Xót đó được thể hiện cách cụ thể và sống động nhất. Tất cả những gì Đức Giêsu đã chịu, đã đón nhận là vì lòng thương xót dành cho chúng ta.
Vì thế, chúng ta hãy tạ ơn Chúa! Chúng ta hãy tạ ơn vì lòng thương xót đã mang lại ơn cứu độ cho chúng ta. Nhờ cuộc Thương Khó và Phục sinh của Đức Giêsu mà những đau khổ chúng ta gặp phải không trở nên vô nghĩa.

Những ai đang đau khổ, đang chịu áp bức, đang bị đối xử bất công, đang bị sỉ nhục vô cớ, Thiên Chúa không để cô đơn. Ngài không để mặc chúng ta chịu đựng, bởi chính Con Một yêu dấu của Ngài cũng đã từng bị như thế. Hơn ai hết, Ngài hiểu và thấu cảm nổi khổ của ta. Phần ta, hãy tin tưởng và phó dâng cho Chúa. Tin tưởng những đau khổ ta đang chịu có giá trị hiệp thông với những đau khổ của Chúa và phó dâng cho Chúa vì biết rằng qua những đau khổ đó, chúng ta cũng sẽ được thừa hưởng vinh quang với Ngài.

Thứ Hai, 11 tháng 4, 2016

HÌNH ẢNH GIÁO HỘI BÊN BIỂN HỒ TIBÊRIA

Chúa nhật III Phục sinh
HÌNH ẢNH GIÁO HỘI BÊN BIỂN HỒ TIBÊRIA
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay kể lại việc Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ lần thứ 3 tại Biển Hồ Tibêria. Qua lần hiện ra này, chúng ta có thể nhận ra hình ảnh một Giáo hội thật sống động.
Một Giáo hội quy tụ bên vị thủ lãnh
Dù cho Phêrô vẫn còn khiếm khuyết qua việc chối Thầy, thế nhưng ngài vẫn có uy tín với các Tông đồ khác. Các vị khác tuy không chối Chúa nhưng có lẽ cũng chẳng có ai dám coi mình tốt hơn hay xứng đáng hơn Phêrô. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác nhận vị trí của Phêrô qua việc giao phó đoàn chiên của Ngài. Ngày nay, dù cấp độ hoàn cầu hay địa phương, hình ảnh Giáo hội vẫn là hình ảnh quen thuộc đó: một đoàn chiên quy tụ bên vị mục tử. Dù cho vị mục tử vẫn còn nhiều thiếu sót nhưng các ngài vẫn là những người được Chúa tuyển chọn để chăm sóc đoàn chiên.  
Đã quen với việc có Thầy ở bên, giờ không có Ngài các ông cảm thấy buồn. Do vậy, Phêrô quyết định ra khơi đánh cá. Thủ lãnh ra khơi, lẽ nào các môn đệ khác ngồi ở nhà? Vậy là các ông lên tiếng: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Ra khơi để cùng chia sẻ vui buồn sướng khổ với nhau, ra khơi để cùng chịu vất vả và tận hưởng niềm vui với nhau, đó là một hình ảnh đẹp của Giáo hội. Mẻ lưới đầy cá được kéo vào bờ trước Phêrô nhưng các môn đệ không vội đưa lưới lên bờ. Cần chờ Phêrô vào bờ để chính ngài phụ trách việc đếm cá. Giáo hội vừa đồng lòng hiệp nhất nhưng cũng có trật tự rõ ràng. Vai trò của Phêrô luôn được tôn trọng. Giáo hội ngày nay cũng cần như thế. “Ra khơi” không chỉ là việc của các Giám mục, Linh mục hay Tu sĩ nhưng là của tất cả mọi người. Tất cả đều cùng “ra khơi bắt cá” dưới sự hướng dẫn của vị mục tử.
Một Giáo hội sống Lời Chúa
Các tông đồ ra khơi nhưng không bắt được gì, cho tới khi làm theo lời Đức Giêsu. Nhờ làm theo lời Đức Giêsu, họ được một mẻ cá lạ lùng với 153 con. Theo các nhà khoa học lúc bấy giờ, người ta biết được tất cả là 153 loài cá dưới biển. Nếu đúng như thế thì 153 không phải là con số chỉ số lượng nhưng chỉ số loại. Nghĩa là mẻ lưới của các Tông đồ bắt được tất cả các loại cá có được ở dưới biển. Điều kỳ diệu đó xảy ra không phải do khả năng của các ông nhưng nhờ nghe và làm theo Lời Đức Giêsu.
Giáo hội ngày nay cũng thế, sẽ vất vả uổng công nếu thiếu vắng Đức Giêsu. Mọi nổ lực của con người sẽ trở nên vô ích nếu không có Chúa. Mọi nổ lực xây dựng Giáo xứ sẽ vô ích nếu không được hướng dẫn bởi Lời Chúa. Gia đình sẽ không thể hạnh phúc thực sự nếu gạt Chúa ra ngoài. Việc giáo dục con cái sẽ không trọn vẹn nếu không khuyến khích con cái học hỏi giáo lý để biết và sống Lời Chúa.
Một Giáo hội quy tụ bên bữa tiệc thánh thể
Các môn đệ lên bờ thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Các môn đệ có vẻ e dè khi đến với Đức Giêsu. Điều đó cũng dễ hiểu bởi các ông còn mặc cảm về tội lỗi của mình. Người thì bỏ Thầy mà chạy bán sống bán chết, người theo Chúa xa xa thì lại chối Thầy. Hầu hết đều bặt vô âm tín trong những ngày Thầy chịu khổ hình.
Trái ngược với thái độ e dè của các môn đệ, Đức Giêsu chủ động đến với các ông. Như biết được nỗi lòng của các ông, Ngài ân cần chăm sóc và tận tình lo lắng. Ngài dọn sẵn cho các ông một bữa ăn sau đêm dài vất vả. Ngài mời gọi các ông đến dùng bữa với Ngài. “Anh em hãy đến mà ăn!” Lời mời gọi thật thân thương và gần gũi biết bao. Ngài cầm lấy bánh và cá mà trao cho các môn đệ. Đó là những cử chỉ gợi lại việc Ngài thiết lập bí tích Thánh Thể.
Hình ảnh Giáo hội là hình ảnh các tín hữu quy tụ nhau quanh bàn tiệc Thánh Thể. Có Đức Giêsu hiện diện và chăm lo. Ngày nay cũng thế, hình ảnh Giáo hội sẽ chưa trọn vẹn nếu thiếu việc cử hành bí tích Thánh Thể mỗi ngày. Hay nói khác khác, ai tự tách mình ra khỏi bàn tiệc Thánh Thể thì cũng có nghĩa là tự tách mình ra khỏi sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội.