1.
Ý thức hiện sinh
Theo
Jaspers, vũ trụ này chia làm ba cấp độ, cấp độ sự vật, cấp độ hiện sinh và cấp
độ siêu việt. Từ cấp độ sự vật sang cấp độ hiện sinh cần có một bước nhảy mà
không phải ai cũng làm được. Chính vì vậy Jaspers cho rằng nhiều người sinh ra
là người nhưng chưa hẳn đã làm người, tức là đã vươn lên tới mức hiện sinh như
một nhân vị tự do và độc đáo. Do vậy những người sống vô ý thức, vô trách
nhiệm, những người còn để mình bị nô lệ bởi dư luận, bởi những đoàn thể, những
tập truyền thì họ mới chỉ là những đơn vị người chứ chưa phải là những nhân vị
tự do.
Mọi
hiện hữu đều phải hướng lên và vươn lên một cách mạnh mẽ. Do vậy một con người
tự do thì phải biết ý thức về quyền tự do của mình, đồng thời cũng ý thức sâu
xa về trách nhiệm làm người của mình. Ý thức hiện sinh tức là phải biết mình
sống trong cuộc đời này để làm gì. Mình phải đặt những câu hỏi để tìm ra ý
nghĩa cuộc đời của chính mình. Một khi đã xác định được ý nghĩa cuộc đời thì
phải tự chọn lấy cách thức sống, phương thế hành động để làm sao đạt được mục
đích và ý nghĩa đó. Ý thức được những điều trên mới là ý thực hiện sinh đích
thực, ý thức đó làm cho con người trỗi vượt hơn các sự vật và tiến lên không
ngừng. Cuộc sống con người là chuyển động tiến tới không ngừng cho tới khi ta
đạt được ý nghĩa mà vì nó ta đi vào hiện sinh này.
Ý
thức hiện sinh của Jaspers không dừng lại ở chỗ tự ý thức về nhân vị tự do và
độc đáo của mình nhưng còn là ý thức về mối thông giao với tha nhân và nhất là
mối tương quan giữa mình với siêu việt là nguyên ủy của mình. Nếu không giữ mối
tương quan này thì hiện sinh không trung thực hay đúng hơn hiện sinh chưa đúng
với trọn vẹn ý nghĩa của nó.
2.
Ý thức nhân vị
2.1.
Tìm
một ý nghĩa
Hiện
sinh khác với sinh tồn ở chổ sinh tồn coi sự sống là ý nghĩa của cuộc đời mà
không cần biết sống như thế nào và sống để làm gì. Ngược lại, hiện sinh trước
hết là đi tìm ý nghĩa cao quý của cuộc đời và thể hiện nó một cách độc đáo.
Dĩ
nhiên đây là công việc của mỗi người. Mỗi người sẽ phải có trách nhiệm đi tìm
câu trả lời cho mình và có lẽ mỗi người cũng sẽ có một câu trả lời khác mang
nét độc đáo riêng của mình. Tuy nhiên, Jaspers cho thấy rằng ý nghĩa đích thực
của hiện sinh phải là vươn tới siêu việt, tức là tìm về với Thượng Đế là nguyên
ủy của mình. Điều này quả thực rất phù hợp với đức tin Công giáo.
Quả
thực, theo Thánh kinh, con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và do
đó con người sẽ còn khắc khoải lo âu cho tới khi nào được về với chính Đấng tác
tạo nên mình (thánh Augustin). Trái cấm đã mở mắt con người và con người ý thức
được rằng từ đây giữa mình và Thiên Chúa đã có một khoảng cách. Bước chân con
người rời khỏi vườn Eđen khởi đầu cho hành trình tìm kiếm chính mình và cũng là
để tìm về khu vườn xưa. Thiên Chúa đưa con người ra khỏi vườn Eđen để hứa ban
cho con người một khu vườn khác đẹp hơn hoàn hảo hơn, khu vườn không có trái
cấm, đó chính là Nước trời. Con người phải vươn lên trong hành trình làm người
để với ơn cứu độ con người được trở về với nguyên ủy của mình.
Thế
nhưng trong hành trình làm người này, không phải ai cũng nhân ra hay xác định
đúng mục đích và ý nghĩa đời mình. Đó là lý do tại sao ngày nay nhiều người rời
xa đức tin hay sống đức tin cách hời hợt. Xã hội và tôn giáo vẫn luôn cung cấp
nhiều ý nghĩa và mục đích làm người nhưng những ai chỉ dừng lại ở những mục
đích hay ý nghĩa tầm thường thì cuộc sống của họ chưa vươn tới tầm hiện sinh
đích thực. Hiện sinh đích thực chỉ có khi ta dám lựa chọn và xây dựng chính
mình dựa trên những mục đích và ý nghĩa có giá trị cao đẹp và hướng về siêu
việt.
2.2.
Xây
dựng chính mình
Jaspers
nói rằng hiện sinh chỉ bắt đầu khi con người ý thức sâu xa cũng như chủ động để
tự xây dựng nhân cách và định mệnh của mình. Ông nói cách mạnh mẽ rằng: tôi chỉ
là cái tôi do chính tôi tạo nên … cái tôi trung thực đó không ở sau lưng tôi,
cũng không phải là cái tôi hiện tại nhưng là cái tôi ở trước mặt tôi, là cái
tôi đang trở thành, là cái mà tôi quyết tâm để trở nên.
Karl
Jaspers không dừng lại ở cái tôi hiện tại nhưng ông luôn muốn tiến về phía
trước. Chúng ta không chỉ xác định cho mình một mục đích để rồi để đó mà chiêm
ngưỡng. Chúng ta cũng không tự thỏa mãn với ý nghĩa đã đề ra. Chúng ta chỉ được
thỏa mãn khi nào hoàn thành chính mình, tức là đã tìm về được với nguyên ủy của
mình. Để đạt được điều đó, mỗi người phải tự xây dựng chính mình.
Xây
dựng chính mình còn là xác định cho mình lối sống và cách thế thể hiện niềm tin
của chính mình. Nói tôi có đức tin mà không sống đức tin cũng sống như nói đời
tôi có một ý nghĩa và mục đích nhưng thực tế ta chẳng làm gì. Xây dựng chính
mình trong đời sống đức tin là sự trưởng thành không ngừng trong tương quan với
Thiên Chúa và tha nhân. Xây dựng chính mình là sự hoàn thiện mình mỗi ngày.
Một
khi đã xác định mục tiêu và ý nghĩa trong Thiên Chúa chúng ta phải xây dựng đời
mình trong đời sống đức tin. Cái tôi không lệ thuộc quá khứ, không thỏa mãn với
hiện tại nhưng hướng về tương lai, điều này mở ra cho những khát vọng của con
người. Được như thế, tôi sẽ không mặc cảm với quá khứ hèn yếu của tôi, tôi sẽ
không thất vọng với những vấp ngã hiện tại của mình. Cái tôi hướng về tương lai
cho phép tôi đứng lên và tiến bước không ngừng.
Đời
sống đức tin cần được xây dựng trên cái nhìn như thế. Đức tin là sự tiến bước
trong hy vọng. Hiện tại tôi có thể bất toàn nhưng với cái nhìn đức tin tôi tin
tưởng giao phó đời mình cho sự dẫn dắt của Chúa. Đời sống đức tin đòi hỏi một
sự trưởng thành không ngừng. Tôi tin tưởng, tôi tiến bước tôi thất vọng và lại
tin tưởng. Cuộc đời sẽ thử thách cho đến khi nào tôi hoàn toàn đặt niềm tin vào
bàn tay Thiên Chúa.
2.3.
Tự
do nhân vị
Ý
thức nhân vị là ý thức đời ta có một mục đích và ý nghĩa, từ đó ta xây dựng đời
mình và sống đời sống đó một cách tự do. Sống tự do là cách thức thể hiện nét
hiện sinh trọn vẹn nhất. Tự do là khả năng cho thấy con người khác với sự vật
và tự do cũng cho thấy con người không bị “quy định” bởi Thượng đế. Theo
Jaspers, ý nghĩa sâu xa và hiện sinh của tự do là tự quyết và tự chọn. Đây cũng
là điều rất thích hợp với đức tin Công giáo. Con người được mời gọi trở về với
nguyên ủy của mình là Thiên Chúa nhưng con người không bị ép buộc. Con người có
tự do để tự chọn và tự quyết hành trình của mình.
Thế
nhưng phải hiểu và thực hành như thế nào mới xứng đáng là tự do của một nhân vị
hướng về siêu việt.
Tự
do không phải là hành động theo thúc đẩy bừa bãi của dục vọng nhưng là hành vi
gắn liền với ý thức và trách nhiệm. Ý thức và trách nhiệm tức là ta phải băn
khoăn suy nghĩ giữa nhiều con đường để lựa chọn. Điều này không có nghĩa là tự
do của ta bị hạn chế. Ý thức và trách
nhiệm không phải là những ngoại lực tạo áp lực lên tự do của ta nhưng chính
trong ý thức và trách nhiệm, hành vi tự do của ta mới mang tính nhân vị và
hướng về siêu việt. Ý thức và trách nhiệm trở thành một luật của chính ta và
cho chính ta.
Điều
này có liên hệ đến cách sống đức tin của chúng ta. Ngày nay người ta rời bỏ
Giáo hội một phần là vì họ thấy Giáo hội không đáp ứng được những đòi hỏi tự do
của thời đại. Con người ngày nay bị ảnh hưởng bởi lối sống tự do thực dụng và
do đó họ nhìn thấy trong Giáo hội chỉ toàn là những ràng buộc của luật lệ: Nào
là không được ly dị, không được phá thai, không được sử dụng bao cao su, v.v..
Đó đây có những chống đối Giáo hội chỉ là vì họ chưa nhận ra giá trị thực sự
của tự do nhân vị.
Ngay
cả chúng ta, những người đang sống đức tin trong lòng Giáo hội, đôi khi chúng
ta cũng sống với tinh thần nệ luật. Tôi hành động thế này là vì luật; tôi không
hành động thế kia là vì luật không cho phép. Cuối cùng, có thể chúng ta vẫn
sống đạo cách ngoan ngoãn nhưng xét cách sâu xa chúng ta chưa sống tự do đích
thực. Hành động cách tự do xứng với nhân vị là tôi hành động như thế là vì tôi
nhận ra nét cao cả của hành động đồng thời qua đó tôi thể hiện nhân vị của
mình. Tôi hành động vì tôi đáng hành động như vậy chứ không phải vì luật. Sống
được tinh thần tự do đích thực này tôi vẫn chu toàn luật nhưng không lệ thuộc
vào luật, luật không phải là rào cản phải vượt qua nhưng là yếu tố giúp tôi thể
hiện nhân vị của mình. Nếu hiểu và sống được tinh thần này thì tự do không chỉ
giúp tôi thể hiện nhân vị của mình nhưng tự do này còn hướng tôi tiến đến gần
nguyên ủy của mình là Thiên Chúa.
3.
Ý thức thông giao
Ý
thức nhân vị của chính mình cũng đống nghĩa với việc ý thức nhận vị của người
khác và tương quan với họ như là những nhân vị độc đáo và hiện sinh. Mối tương
quan này được Jaspers diễn tả qua chữ thông giao. Như vậy, thông giao là mối
tương quan của hai hiện sinh thực sự, tức là hai hiện sinh khác nhau, độc lập
với nhau, thâm chí xung khắc với nhau nhưng mối tương quan này được thể hiện
trong tình yêu thương. Jaspers cho rằng đấu tranh là nền tảng của thông giao.
Không có đấu tranh thì không thể có tương quan yêu thương thực sự. Thông giao
được ví như mối tình thiếu xung khắc là mối tình thiếu sâu sắc. Trong thông
giao, hai yếu tố đấu tranh và yêu thương phải ngang bằng nhau.
Tư
tưởng này làm vang vọng lại lời của Đức Giêsu: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu
thương mình thì có gì là ân với nghĩa?” ( Lc 6, 32) hay “hãy yêu kẻ thù và làm
ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6, 27). Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu vô vị
lợi, một lời mời gọi mà có lẻ chỉ khi nào mức hiện sinh của ta tiến gần tới
Thiên Chúa ta mới thực sự có được. Trên con đường đi tới của hiện sinh, chúng
ta nhất thiết phải đạt được ý thức thông giao của Jaspers. Ý thức này đòi buộc
chúng ta nhìn tha nhân như chính họ là. Một tương quan thực sự không nhất thiết
là một tương quan dễ dàng. Một tương quan dễ dàng đôi khi là một tương quan hời
hợt. Dưới cái nhìn đức tin, mỗi người đều mang trong mình hình ảnh Thiên Chúa,
mỗi người đều là đến thờ của Chúa Thánh Thần. Do đó mỗi người đều là một nhân
vị tự do và có giá trị cao cả.
Ý
thức giá trị của mình đã khó, ý thức giá trị của người khác còn khó hơn. Trong
tương quan với tha nhân, chúng ta phải đặt tha nhân ngang hàng với mình. Phải
có cái nhìn tôn trọng chúng ta mới nhận ra những nét độc đáo và riêng biệt của
tha nhân. Đây là tương quan hai chiều chứ không phải tương quan một chiều.
Tương quan đích thực phải làm sao cho cả hai cùng lớn lên, cùng trưởng thành,
cùng tiến về đích trong khi vẫn giữ những nét riêng của mình.
Tương
quan này thực sự cần thiết trong đối thoại liên tôn, trong khi rao giảng Tin
mừng cũng như trong công việc bác ái tông đồ. Đối thoại liên tôn cũng như rao
giảng Tin mừng phải đặt nền tảng trên việc hiểu biết nhau, nhận ra những giá
trị của nhau và giúp nhau tìm về nguyên ủy của mình. Thiếu cái nhìn tôn trọng,
bình đẳng nhưng khác biệt và thạm chí xung khắc chúng ta sẽ khó đối thoại. Chân
lý chỉ được nhìn thấy trong đối thoại thực sự mà đối thoại chỉ được xây dựng
trên khác biệt nhưng bình đẳng và tôn trọng.
Cũng
vậy trong việc mục vụ bác ái tông đồ, chúng ta hay có cái nhìn của người làm
ơn. Chúng ta tự đặt mình ở địa vị khác cao hơn, trọng hơn để tương quan với
người khác. Việc coi người khác là kẻ mang ơn, là người thụ động nhận sự giúp
đỡ của mình là một hình thức đặt tha nhân ở dưới mình. Đây là một tương quan
thiếu bình đẳng và theo Jaspers đây chưa phải là thông giao thực sự.
Chỉ
khi ta có một ý thức thông giao thực sự, tức là ta xây dựng một tương quan thực
sự với tha nhân khi đó ta mới là một hiện sinh đúng nghĩa. Mà theo tư tưởng của
Jaspers, một hiện sinh đúng nghĩa phải là một hiện sinh hướng về Siêu Việt Thể
chính là Thượng Đế.
4.
Soi vào hiện sinh, con đường tới
siêu việt
Như
đã trình bày, hiện sinh của Jaspers là hiện sinh trong tương quan với Siêu Việt
Thể. Hiện sinh chỉ có ý nghĩa khi đặt mình trên con đường tiến tới gần Thượng
Đế là nguyên ủy của mình. Vì thế có thể nói Siêu Việt thể là cùng đích của hiện
sinh. Giống như Augustin, Jaspres cho rằng: hiện sinh không thể an nghĩ trong
mình nó. Nó chỉ được thỏa mãn trong hữu thể siêu việt. Không có tương quan này
hiện sinh không đáng là hiện sinh nữa. Vậy câu hỏi đặt ra là làm thể nào để
hiện sinh đạt tới nguyên ủy của mình.
Jaspers cho rằng nếu dùng lý luận để tìm Thượng Đế thì
Thượng Đế chỉ là một sản phẩm của tâm trí con người. Do đó chúng ta không thể
tiến tới Thượng Đế bằng con đường lý luận nhưng bằng con đường của tượng số.
Tượng số là những biểu tượng qua đó ta nhận ra cái vô cùng, cái cùng kỳ lý của
vũ trụ. Điều này có nghĩa là vạn vật có một ý nghĩa sâu xa của nó mà ai với mức
hiện sinh của mình sẽ chịu khó suy nghĩ thì qua đó sẽ gặp được đấng Siêu việt.
Jaspers đề cập đến bốn loại tượng số là vũ trụ, ý thức con người, lịch sử tinh
thần con người và hiện sinh của mỗi nhân vị. Trong bốn loại trên thì loại tượng
số sau cùng là quan trọng nhất. Như đã nói ở trên hiện sinh đích thực là hiện
sinh trong tương quan với Siêu Việt Thể cho nên qua hiện sinh chúng ta có thể
và dễ dàng nhận biết Siêu Việt Thể nhất.
Như
trên đã phân tích, tự do chính là yếu tố cao quý nhất của hiện sinh. Tuy nhiên
cũng vì là hiện sinh nên con người còn bị giới hạn bởi thân xác trong hoàn cảnh
sống hàng ngày. Vậy nên tự do của hiện sinh cũng bị giới hạn hay điều kiện hóa
với những hoàn cảnh sống cụ thể, vào những tâm tình và giáo dục của ta. Như
vậy, trên con đường tiến lên siêu việt, con người gặp phải bức tường là những
giới hạn của mình. Chính những bức tường này giúp cho ta chạm trán với Đấng
Siêu Việt. Chính trong những hoàn cảnh bị giới hạn như đau khổ, tội lỗi, bệnh
tật và cái chết mà ta dễ tiếp xúc với Siêu việt hơn.
Chính
trong những kinh nghiệm đau thương mà con người nhận thấy những giới hạn, những
yếu đuối, những bất toàn của mình. Và cũng chính trong những hoàn cảnh đó, con
người lại càng thấy mình cần đến Thượng đế và nhất là càng dễ tiếp xúc và cảm
nhận sự hiện diện của Thượng Đế hơn.
Kinh
nghiệm đức tin chính là kinh nghiệm gặp gỡ. Nhìn lại lịch sử đời ta, nhất là
những lúc khó khăn thất vọng chúng ta sẽ dễ nhận thấy bàn tay quan phòng của
Thiên Chúa. Những tri thức đến từ lý trí dĩ nhiên vẫn rất cần để soi sáng và
hướng dẫn đời sống đức tin của ta. Tuy nhiên một cuộc gặp gỡ và tiếp xúc thật
sự chỉ xảy ra trong kih nghiệm cuộc sống hàng ngày. Đó cũng chính là kinh
nghiệm của người Do Thái. Qua bao biến cố đau thương trong lịch sử cứu độ, dân
Israen đã tha thiết kêu cầu và nhận ra sự hiện diện quan phòng của Thiên Chúa.
Những kinh nghiệm như thế chúng ta có thể gặp thấy trong rất nhiều thánh vịnh,
chẳng hạn như : Sóng tử thần dồn dập chung quanh, thác diệt vong làm tôi kinh
hãi,… Lúc ngặt nghèo tôi kêu cầu Chúa, kêu lên Người là Thiên Chúa của tôi. Từ
thánh điện, Người đã nghe tiếng tôi cầu cứu, lời tôi khấn nguyện vọng đến tai
Người. (x.Tv 18, 5-7). Như vậy, chính khi nhìn lại những kinh nghiệm trong cuộc
hiện sinh của chính mình hay của những hiện sinh xung quanh mà ta nhận ra sự
hiện diện của Đấng Siêu Việt.