Hiển thị các bài đăng có nhãn tài liệu khác. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tài liệu khác. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2015

LÊNH ĐÊNH CON CHỮ

Lênh đênh tìm con chữ
Thực tình mà nói, tìm con chữ vẫn là niềm vui của đa số các em nhưng hành trình của nó sao mà lênh đênh quá. Cũng giống như bao trẻ em người Kinh khác, được mặc trên người bộ quần áo đẹp, khoác trên vai chiếc cặp xinh xinh là niềm hãnh diện của nhiều em nhỏ Barnah. Thế nhưng khi đến trường, ngoài những trở ngại như bao em khác thì các em ở đây còn chịu một thiệt thòi rất lớn, đó là vấn đề ngôn ngữ. Nếu may mắn gặp một cô giáo Barnah, các em sẽ cảm được một sự gần gũi thân một rất tự nhiên, nhưng nếu gặp một cô giáo ngươi Kinh, các em sẽ thấy một khoảng cách vô hình, dù cho các cô đã cố xóa đi khoảng cách vô hình đó.
Đã vậy, hành trình đến với môn toán và môn văn lại càng cam go hơn. Môn toán đòi hỏi một tư duy trừu tượng, một lối tư duy vốn không phổ biến nơi người Barnah, một sắc tộc thích lối tư duy cụ thể, chi tiết. Ở một thái cực khác, môn văn đòi hỏi một sự gắn bó mang tính văn hóa và truyền thống, đòi hỏi sự cảm nhận của cái đẹp về ngôn ngữ. Thế mà đối với các em, tiếng Việt khác nào là một ngoại ngữ.
Nếu nói các em Barnah lười học thì có lẽ không chính xác, bởi ngay từ bé, hầu như các em đều thích thú với con chữ, có chăng là hành trình đến với con chữ của các em qua lênh đênh. Các em phải đối diện với các trở ngại quá sớm. Nếu là người đã đầy đủ ý thức, họ sẽ cố gắng vượt qua những trở ngại để đạt đến mục đích. Đàng này các em còn trong tuổi ăn, tuổi chơi. Khi gặp trở ngại, nếu không có sự động viên, can thiệp đúng lúc, các em sẽ rất dễ bỏ cuộc để trở về với cuộc sống “an nhiên” của mình.
Hành trình đến với con chữ của các em vốn lênh đênh, nên các em cần lắm những tấm lòng quảng đại của những người đi truyền cái chữ. Tuy thế, hành trình truyền cái chữ cũng lênh đênh không kém!
Lênh đênh truyền con chữ
Có thể nói, kiếm được một “chỗ đứng” trong ngành sư phạm hiện nay là điều khó, thường tốn kém không ít. Vì thế, thầy cô nào cũng háo hức hơn nếu được tiếp nhận một lớp người kinh, may ra sau vài năm sẽ gỡ “lại vốn”. Còn nếu nhận được một lớp các em người địa phương thì… chỉ còn biết trông cậy vào cái tâm lớn của nhà giáo dục mà thôi.
Rất may, đa phần các thầy cô mà tôi có dịp tiếp xúc trong thời gian qua vẫn còn cái tâm rất lớn. Xin phép thay mặt các em, cám ơn các thầy cô! Thế nhưng, cái tâm của các thầy cô cũng phải được thanh luyện qua nhiều thử thách.
Cảm hứng sư phạm và rào cản ngôn ngữ: kiến thức chuyên môn và sư phạm cũng cần có môi trường thuận lợi để tiếp thêm động lực và cảm hứng truyền đạt. Thế nhưng khác biệt ngôn ngữ một lần nữa lại là rào cản khó khăn. Làm sao giải thích cho các em hiểu ý niệm “căn bậc hai”, “lũy thừa”, v.v.. chỉ có cách là học vẹt, ngay cả bảng cửu chương cũng thế. Mà vì học vẹt nên sau một kỳ nghĩ thì mọi sự lại phải “khởi động” từ đầu. Thử tưởng tượng ta phải học bảng cửu chương bằng tiếng Anh thì sẽ hiểu được khó khăn của các em và nỗi khổ của giáo viên.
Đó là chưa kể đến rào cản sắc tộc. Các cô người Kinh muốn gần gũi để hiểu và cảm thông với các em cũng như để được các em tín nhiệm đòi hỏi thời gian và sự kiên trì. Mà một năm học thì sẽ thoáng qua với biết bao là công việc!
Thêm nữa, trong khi phụ huynh người Kinh lo lắng việc học cho con em mình nhiều khi quá đáng thì trái lại, phụ huynh người bản địa thường bỏ ngỏ điều này. Số người biết lo cho con học trường này, lớp nọ, cô kia là rất hiếm. Nếu gặp bố mẹ mà hỏi tại sao con không đi học nữa thì câu trả lời đơn giản sẽ là “hi kuă - nó không muốn”. Nó không muốn thì bố mẹ cũng chịu, không biết làm gì hơn dù con chỉ mới học cấp 1.
Các em học tự lực là chính, anh chị nào khá hơn thì còn biết chỉ cho em học chứ bố mẹ thì chịu. Các em cũng học với tinh thần rất vô tư. Xong học ở lớp là về vất sách vở và chơi. Chẳng mấy khi xem bài vở thêm ở nhà. Có vẻ như nhà trường cũng thất bại trong việc này nên chẳng mấy trường cho các em bài tập làm ở nhà. Nói chung, sự nghiệp truyền cái chữ vẫn còn lắm lênh đênh!
Lênh đênh dùng con chữ
Biểu đồ học sinh ở các xứ người địa phương sẽ là một hình kim tự tháp nhọn hoắt, bởi số lượng các em trụ lại đến cấp 3 và sau phổ thông là rất hiếm. Các bạn này thật đáng trân trọng và khuyến khích! Thế nhưng số phận lênh đênh của con chữ vẫn chưa dừng lại. Với cái chữ mà các em và gia đình đã tốn bao nhiêu công sức và tiền của, làm sao các em có thể dùng nó để nuôi sống bản thân và gia đình?
Quả là vấn nạn nhức nhối và ray rứt cho những ai quan tâm đến giáo dục! Điều này chắc cũng không cần phải nói nhiều vì nó đã là quốc nạn! Một năm bao nhiêu sinh viên ra trường? Bao nhiêu em có được việc làm đúng ngành nghề? Làm thế nào để xin việc đúng nghành nghề mà không phải mất tiền?
Vấn nạn quá lớn, xin nhường lại cho những nhà hữu trách. Ở đây xin nêu lên một băn khoăn: Nếu không dùng được thì học cho lắm cái chữ để làm gì? Có người nói, những người có học hay học nhiều thì cách cư xử, lối sống cũng sẽ khác hơn. Thế nhưng cũng có một thực tế là những làng càng gần thành phố, càng học nhiều, lại càng nhiễu nhiều tính xấu như đua đòi, trộm cắp, gia dối, v.v.. trong khi những làng càng ở xa lại càng giữ được truyền thống văn hóa, tính chân thành, đơn sơ!

Dĩ nhiên ta không phủ nhận lợi ích của cái chữ mang lại nhưng vấn đề là làm thế nào để phát huy nó, để nó thực sự hữu ích mà không phải trả một cái giá quá đắt. Song song với việc nâng cao trình độ văn hóa, ta cần làm thêm điều gì nữa? Làm thế nào để văn minh, văn hóa và nhân văn song hành cùng nhau? Đó có lẽ là vấn nạn đang đặt ra cho anh chị em Đaminh chúng ta, những người đã chọn lựa mảnh đất Tây nguyên này làm nơi dấn thân loan báo Tin Mừng sự sống. 

Thứ Hai, 13 tháng 1, 2014

TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỜI TU: CÁM DỖ TRONG ĐỜI TU



Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.

Hành trình “tâm linh” mà chúng ta phải theo đuổi được trải bằng những chướng ngại vật. Khi một số ở bên trong còn một số lại ở bên ngoài. Mỗi chúng ta đều mang thân phận tội lỗi vốn tự nhiên khiến mình trở thành một kẻ đồng lõa của sự dữ. Chúng ta có thể nói, theo lời diễn giải của Phaolô, “Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt” (x. Rm 7, 14). Thế gian, xác thịt và ma quỷ (x. 1Ga 2, 14-16) bắt gặp trong chính bản thân chúng ta, một sự đồng lõa ngầm. Và ngay cả khi tội đồng lõa nội tại này bị loại bỏ, thì chúng ta vẫn mở cho những xúi giục, níu kéo và xu nịnh bên ngoài xui khiến chúng ta tạo ra khoảng trống cho điều xấu xa vào đời ta. “Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ?” (Rm 7, 24). Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu xin Chúa Cha “giải thoát chúng ta khỏi sự dữ”.
Chúng ta nên chiêm niệm sự cám dỗ dưới viễn cảnh : Đức Kitô vẫn đang bị thử thách trong chính chúng ta.
2.    NHỮNG CÁM DỖ CỦA CHÚA GIÊSU

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỜI TU: QUÀ TẶNG HAY ÂN SỦNG (3)

Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.
         3.    KHAO KHÁT VÀ NỖ LỰC CHIẾN ĐẤU
        Người tu sĩ phải khao khát và hăng hái kiếm tìm ân huệ của sự công chính Nước Trời ; ở giữa và cùng với dân Chúa, người tu sĩ phải nỗ để kín múc lấy ân sủng của sự trưởng thành tròn đầy nơi Đức Kitô.
         3.1.      Tầm quan trọng của khao khát
         Chúng ta phải nhấn mạnh đến tầm quan trọng của “khao khát”. Khao khát nghĩa là để ân sủng của Thiên Chúa quyến rũ mọi động lực cá nhân của chúng ta, để chúng ta chuyển động lực đó đến với ân sủng và để cho ân sủng dẫn dắt. Nuôi dưỡng những khát khao tốt là con đường đúng đắn nhất để đón nhận trải nghiệm của ân sủng. Những khát khao tốt được nuôi dưỡng bởi những ai không quên đi lời họ đã nghe được, và luôn chiêm niệm những ân sủng Chúa, đồng thời nỗ lực để không đánh mất sự chiêm ngắm những dấu vết của Thiên Chúa qua lịch sử. Trong phạm vi nào đó, khi ân sủng Thiên Chúa luôn được duy trì qua việc chiêm ngắm và thấu hiểu ; ở cùng phạm vi đó, thì ân sủng ấy được khát khao chiêm niệm sâu hơn. Khao khát đánh thức một tình yêu mãnh liệt. Khao khát làm cho lời cầu nguyện được thốt ra. Như thánh Âu-Tinh đã viết :

Thứ Hai, 16 tháng 12, 2013

TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỜI TU: QUÀ TẶNG HAY ÂN SỦNG (2)

Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.

Thiên Chúa Cha đã mời gọi chúng ta hầu chúng ta có thể đạt đến sự trưởng thành tròn đầy trong Đức Kitô. Như nền tảng cho lời kêu gọi này khi đọc thư Ê-phê-xô 4, 13 :
            “Và chính Người đã “ban” ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô. Như vậy, chúng ta sẽ không còn là những trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi giạt theo mọi chiều gió đạo lý, giữa trò bịp bợm của những kẻ giảo quyệt khéo dùng mưu ma chước quỷ để làm cho kẻ khác lầm đường. Nhưng, sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái”(Ep 4, 11-16).

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2013

TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỜI TU: QUÀ TẶNG HAY ÂN SỦNG (1)



Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.



1.   TÂM LINH NHƯ MỘT HÀNH TRÌNH : ÂN SỦNG VÀ DẤN THÂN
Cái chìa khóa mà người tu sĩ chúng ta phải nắm bắt và theo đuổi tiến trình đời tu của mình cách tích cực chính là một ân sủng ưu việt, đòi chúng ta phải mở lòng mình ra qua hai cách đáp trảnghe theo.
“Hành trình tâm linh” của một tu sĩ là kết quả tuyệt vời của cuộc đối thoại trong tự do từ cả hai phía : Thiên Chúa và con người. Điều này có thể được giải thích theo những thuật ngữ trong hai khung cảnh Tin Mừng liên quan đến Phê-rô : Đầu tiên là việc thoát khỏi tù cách lạ thường (x. Cv 12, 1-11) ; thứ đến là nỗ lực của ông đi trên mặt biển hồ Ga-li-lê (x. Mt 14, 25-32).
1.1.      Hai khung cảnh Tin Mừng
khung cảnh đầu tiên chúng ta biết Phê-rô đang ở tù. Thiên sứ của Chúa đánh thức ông, giải thoát ông khỏi xiềng xích, mở mọi cửa nẻo cho ông, và cả cổng thành. Phê-rô được trao tặng con đường toàn vẹn dẫn đến tự do. Đây được xem như là món quà tinh tuyền mà Phê-rô nhận được. Thiên sứ chỉ cho ông cơ hội tuyệt vời này bằng những từ ngữ mang tính mệnh lệnh sau : “đứng dậy mau đi…, mặc quần áo vào…, xỏ dép vào…, khoác áo choàng vào…, đi theo tôi !”. Điều duy nhất đòi nơi Phê-rô là hãy đặt niềm tin vào người báo cho ông sự giải thoát, và ông phải có ước muốn được giải thoát mạnh mẽ. Phê-rô sẽ phải cất bước hướng đến tự do, được thúc đẩy bởi niềm tin, và tín thác rằng sự giải thoát sẽ được tỏ lộ khi ông vượt qua mọi thử thách có thể xảy ra trong hành trình đạt đến mục tiêu. Và thực ra, Phê-rô đã chấp nhận mọi rủi ro, đã tín thác vào Người ban cho ông cơ hội thoát khỏi ngục tù nhờ vào sự tín thác của ông.

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2013

HÀNH TRÌNH TÂM LINH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ (6)

ĐỒNG NHẤT VỚI ĐỨC KITÔ
QUA BỆNH TẬT VÀ CÁI CHẾT
Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.
Khái niệm sứ vụ thường bị giản lược chỉ còn là một “hoạt động” thì khái niệm ấy không đầy đủ. Nếu rơi vào trường hợp ấy, sứ vụ lúc ấy chỉ tồn tại khi có những hoạt động tông đồ nào đó được thực hiện ; sứ vụ được đồng nhất với hoạt động tông đồ hay chỉ là thói quen. Quả thực sứ vụ là “hoạt động”, nhưng cũng là “cuộc khổ hình”.
Đức Giêsu, trong khi chịu đựng đau đớn một cách kiên nhẫn trên Thập giá, đã đưa sứ vụ của Người đến sự hoàn trọn trong trường hợp hoàn toàn bị động, trong khoảnh khắc vừa đủ thốt lên, trong giây phút chẳng thể mang đến cho ai niềm an ủi. Chính trong khoảnh khắc ấy mà Người đã kêu lớn tiếng rằng : “mọi sự đã hoàn tất”. Chúng ta hãy chịu đựng bệnh tật, đau khổ bằng sự khiêm tốn và vâng phục hướng về tình yêu nơi Thiên Chúa, để nhận ra rằng qua những đau khổ chúng ta lấp đầy những gì là thiếu thốn trong nỗi đau của Đức Kitô. Khi đó chúng ta hãy cho thấy sự kiên nhẫn tuyệt vời để hứng chịu bệnh tật hay bất kỳ thiếu thốn nào đó do sự nghèo nàn của chúng ta. Bằng cách này chúng ta có thể thuyết phục người khác bằng chính đời sống chứng tá của chúng ta.

Thứ Năm, 5 tháng 12, 2013

HÀNH TRÌNH TÂM LINH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ (5)




Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.


Người tu sĩ theo Đức Giêsu không sống cho riêng mình. Họ sống theo một cách khác. Họ sẵn sàng sống mạo hiểm khi sứ vụ cần đến. Đức Giêsu đã nói với những kẻ theo Người về sự nguy hiểm trong sứ vụ được giao phó : “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10, 16). Hình ảnh đàn chiên ở giữa bầy sói mới chỉ là một chút kinh khiếp thôi.
Người tông đồ Đức Giêsu cũng dễ bị tổn thương như chiên con ; họ (người tông đồ) hoàn toàn không được bảo vệ và bị tước đi sự phòng vệ. Khi ấy, sức mạnh ở trong tay những kẻ chống đối. Ấy vậy mà Đức Giêsu muốn những người đi theo Người hãy thực thi sứ vụ ngay giữa thế giới thù địch như thế. Người yêu cầu họ không vội vàng, thiếu suy nghĩ (“khôn ngoan như rắn”), nhưng Người không muốn họ chơi trò chơi giả dối (“đơn sơ như bồ câu”). Chúng ta hãy nhớ lại những lời Người phán : “Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8, 35), và vì thế chúng ta định hình cuộc sống theo cương lĩnh phục vụ anh chị em chúng ta ngay cả phải hy sinh mạng sống mình.

Thứ Hai, 2 tháng 12, 2013

HÀNH TRÌNH TÂM LINH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ (4)

NÊN MỘT VỚI ĐỨC KITÔ, ĐẤNG CỨU THẾ
Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.
Những cách thế trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng đã chịu đau khổ và chịu chết vì chúng ta, khai mở đường tâm linh cho bất kỳ tu sĩ chính danh nào bước theo Người. Chính Thánh Thần, Đấng xây dựng con người nội tâm, dẫn người tu sĩ đến việc từ bỏ mọi thứ, ngay cả bản thân mình, để có thể đem mọi thứ và mọi người về với Đức Kitô.
Khi kêu gọi các tông đồ, Đức Giêsu đã nói : “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Tuy nhiên đây không là lời mời gọi dấn thân vào con đường buồn chán và đau khổ. Chính sự khiêm hạ mới là chìa khóa đưa người tu sĩ đến hạnh phúc, đó cũng là từ bỏ bản thân, bất chấp những đòi hỏi quyết liệt của việc từ bỏ để cùng chia sẻ niềm vui với Đức Giêsu.

Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2013

HÀNH TRÌNH TÂM LINH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ (3)

Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.
Thánh Phaolô nói với chúng ta : “Giữa các anh em, hãy có tâm tình của Đức Giêsu Kitô, Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, … nhưng đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2:5-9). Những lời này thúc giục chúng ta đồng hóa chính mình với Đức Giêsu khiêm nhường. Tuy nhiên, khiêm nhường là gì ? Chức năng của đức khiêm nhường trong việc thực thi đời sống tu trì là gì ?
Những gì chúng ta coi là to lớn thì Thiên Chúa xem là nhỏ nhặt, những gì chúng ta coi là lố bịch, Thiên Chúa xem là cao cả[1]. Khiêm nhường là sức mạnh hay là nhân đức nhằm đặt để chúng ta vào trong nhãn quan của Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta có thể đánh giá lại và nhìn mọi thứ như chúng là. Khiêm nhường là một quà tặng, một nhân đức giúp chúng ta phần nào hiểu được những gì là đáng giá dưới ánh mắt Thiên Chúa, cũng như những gì Ngài muốn nơi mỗi người chúng ta. Khi Chúa Cha kêu gọi chúng ta nên giống Chúa Giêsu, Ngài kêu gọi chúng ta nên giống với những tình cảm sâu kín nhất của Chúa Giêsu.

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

HÀNH TRÌNH TÂM LINH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ (2)

Lớp Tập Tôma thiện chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.
MẶC LẤY LÒNG NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO
CỦA ĐỨC GIÊSU


Cái hồn hoạt động truyền giáo của người tu sĩ chính là bác ái. Người tu sĩ, trước hết, phải có trái tim biết yêu thương, sẵn sàng chia sẻ tình yêu đó cho bất cứ ai mà mình gặp gỡ. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu tình yêu ấy bằng một từ khóa khác : tình yêu Thiên Chúa – động lực thúc đẩy chúng ta dấn thân vào sứ vụ truyền giáo – được hiểu như “lòng nhiệt thành” (zeal) hay “tình yêu nồng nhiệt” (zealous love).
Trong bản dịch kinh thánh tiếng Anh, tình yêu của Thiên Chúa thỉnh thoảng diễn tả bằng những hạn từ tương đương : “ghen tương” (jealousy) hay “tình yêu vị kỷ” (jealous love). Tiếng Anh vay mượn thuật ngữ “zealous” từ tiếng La Tinh “zelus”, vốn được vay mượn từ tiếng Hy lạp “zêlos”, và “jealous” xuất phát từ tiếng Pháp cổ “gelous/jelouz”, vốn được vay mượn từ tiếng La Tinh. Vì cả tiếng La tinh lẫn Castilian sử dụng hai thuật ngữ “zelus”“celo” như nhau, nên trong ý nghĩa mơ hồ của từ “zeal” hay “jealous”, thì độc giả nói tiếng Anh cần phải ghi nhớ điều này. Ý niệm của từ “zeal” (nhiệt thành, nồng nhiệt) là một quan điểm phong phú vốn thêm nét đặc biệt và tính thực thể luận trong ý niệm bác ái tông đồ.

Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

HÀNH TRÌNH TÂM LINH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ (1)

TỪ NOI GƯƠNG ĐẾN NÊN MỘT VỚI ĐỨC GIÊSU

Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.


Ơn gọi tu trì của chúng ta không có mục đích nào khác hơn là gắn bó mật thiết với Đức Giêsu Kitô. Được trở thành môn đệ Đức Giêsu là mục tiêu cao cả nhất của chúng ta. Thiên Chúa Cha đã chọn chúng ta để chúng ta có thể trở nên giống Đức Giêsu (forma Christi) (Rm 13:14, Ga 6:7) ; để chúng ta có thể bắt chước Đức Giêsu và để công trình sáng tạo nơi Chúa Cha được thể hiện tròn đầy nơi chúng ta, vốn được tác tạo giống “hình ảnh của Thiên Chúa”. Chính “hình ảnh” của Đức Giêsu phải trở thành “hình ảnh” của chúng ta.

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

AI SỐNG BÁC ÁI THÌ KHÔNG SỢ CÁI CHẾT

Tóm bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư 27-11-2013.
Cái chết cật vấn chúng ta một cách sâu xa, nhất là khi đối diện với cái chết của nhưng thân, của các trẻ em vô tội. Nếu coi cái chết là kết thúc mọi sự thì chúng ta sẽ hoảng sợ. Nó sẽ đánh gục và đe dọa chúng ta. Nó sẽ bẻ gãy mọi tương quan và cắt đứt mọi con đường. Nếu quan niệm cuộc sống chỉ là sinh ra và chết đi, nếu cuộc sống chỉ là một sự hiện hữu tình cờ và chết là tiến về hư không, chúng ta sẽ hoảng sợ. Đó là thái độ của những người vô thần.
Sâu xa trong trái tim mỗi người đều có một ước muốn vô tận, một nỗi nhớ nhung vĩnh cửu. Vậy đâu là ý nghĩa của Ki-tô giáo về cái chết? Khi đối diện với những thảm cảnh của cuộc sống, khi chứng kiến sự ra đi của một người thân, chúng ta vẫn thấy âm vang trong lòng một niềm xác tín: cuộc sống chúng ta không kết thúc với cái chết!

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

VIỆC SÁM HỐI CHUNG

Liên quan tới các hình thức sám hối đền tội, các Hội Đồng Giám Mục đó đây trên thế giới đã gợi ý nhiều hình thức mới, phù hợp hơn với thời đại và tâm thức cũng như sự nhậy cảm của con người thời nay.
Chẳng hạn như quyên góp tiền bạc để trợ giúp các dân tộc nghèo, hay các nạn nhân thiên tai; mời gọi tín hữu kiêng thịt, rượu bia, các cuộc giải trí và các chi tiêu thừa thãi.
Hội Đồng Giám Mục Italia thì đề nghị hãm mình đền tội bằng cách không ăn các thực phẩm ưa thích, có một cử chỉ bác ái tinh thần, cầu nguyện tha thứ cho người gây khó khăn, phiền hà hay đau khổ cho mình.

Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

Thánh Giuđa-Tađêô Tông đồ

Ngày 28: Thánh Tađêô Tông đồ

Theo ý kiến các Thánh Giáo Phụ và Thánh Sử thì Thánh Giuđa Tađđêô Tông Đồ thuộc hoàng tộc Đavít. Thật vậy, thân phụ Thánh Tađđêô - ông Clêôpha - là bào huynh của Thánh Cả GIUSE. Thân mẫu Thánh Giuđa Tađđêô - bà Maria Clêôpha - là chị em họ với Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA.

Thánh Giuđa Tađđêô là một trong 12 Tông Đồ và theo Thánh sử Marcô, ngài chiếm hàng thứ 10, còn theo Thánh sử Luca, ngài xếp hàng thứ 11.

Lãnh vực hoạt động tông đồ của Thánh Tađđêô thật mênh mông. Trước tiên, ngài rao giảng Tin Mừng tại Giuđêa, rồi đến Mesopotamia và sau cùng tại Ba-Tư. Đi đến đâu, Thánh Tađđêô đều phổ biến chân lý Ngôi Lời nhập thể và làm nhiều phép lạ nhân danh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Rất đông môn đệ theo ngài và con số Kitô-hữu mỗi ngày một gia tăng. Ngài chỉ định các phó tế, Linh Mục, Giám Mục và thành lập các giáo đoàn địa phương tại tất cả nơi nào ngài truyền đạo.

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Hỡi gia đình, hãy sống niềm vui đức tin

Bài nói chuyện của Đức Phanxicô với các gia đình về chủ đề ”Hỡi gia đình, hãy sống niềm vui đức tin”. (ngày 26.10.2013)

1. Có một câu của Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Mathêu, Đấng đến gặp gỡ chúng ta: ”Hỡi tất cả những ai mệt mỏi và bị áp bức, hãy đến cùng Thầy, và Thầy sẽ bổ sức cho các con” (Mt 11,28). Cuộc sống thường vất vả. Làm việc cơ cực; tìm kiếm công ăn việc làm thật vất vả. Nhưng điều đè nặng nhất trong cuộc sống là sự thiếu tình thương. Thật là nặng nề khi không nhận được một nụ cười, không được đón nhận. Một số thinh lặng, nhiều khi trong gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, giữa anh chị em với nhau, cũng thật là nặng nề. Không có tình yêu thương thì vất vả trở nên nặng nề hơn. Tôi nghĩ đến những người già cô độc, những gia đình cơ cực vì không được giúp đỡ để săn sóc những mgười trong gia đình cần được sự chú ý đặc biệt và chăm sóc. Chúa Giêsu nói:”Hãy đến cùng Thầy, hỡi tất cả những ai vất vả và bị đè nén”!

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Thiên Chúa lớn hơn các "Gôliat"

Ngài ban sức mạnh để chúng ta chiến thắng những nỗi sợ hãi.

Ai có thể quên những sự kiện ngày 11.09.2001? Chúng đã đóng dấu trong ký ức chúng ta, và như các biến cố lớn khác, chúng đã góp phần định hình cách chúng ta nhìn thế giới. Ngày kỷ niệm những cuộc tấn công này – và nhiều hoạt động khác đã diễn ra trên toàn thế giới kể từ sau đó - là cơ hội để suy tư về phản ứng và sự đáp trả của chúng ta đối với bất kỳ loại đe dọa hay nguy hiểm nào rõ ràng như thế.
Đó có thể là một mối đe dọa trên toàn cầu như khủng bố quốc tế, chiến tranh, hoặc khả năng của một đại dịch. Nó cũng có thể là một cái gì đó rất cá nhân như một sự cám dỗ nội tâm mà chúng ta dường như không thể vượt qua hoặc một cuộc khủng hoảng gia đình như vấn đề con cái hay tài chính, hoặc là một cuộc hôn nhân đổ vỡ chẳng hạn.
Khi đối diện với các thách thức như thế, chúng ta thường có ba lựa chọn. Trước hết, có thể chúng ta không hành động hoặc là do dự vì sự sợ hãi làm cho tê liệt. Thứ hai, có thể chúng ta cố gắng lãng tránh các vấn đề và tiếp tục như không có gì thay đổi. Hoặc thứ ba, chúng ta có thể phải đối mặt với vấn đề, cương quyết làm tất cả những gì có thể để vượt qua. Dĩ nhiên, chúng ta biết đó là con đường cao thượng hơn để thực hiện, nhưng nó vẫn có vẻ rất đáng sợ. Vì vậy, chúng ta hãy xem một câu chuyện từ Cựu Ước cho thấy làm thế nào một người nhỏ bé có thể thực sự thay đổi tiến trình của các sự kiện lớn hơn mình rất nhiều.
Thách thức chống lại Thiên Chúa: Vùng đất người Canaan khoảng năm 1000 trước Công nguyên, người Do Thái dưới thời vua Saun đã bị kẻ thù của họ là người Philitinh quấy rối liên tục, nhuệ khí của họ suy giảm. Hai bên dàn trận trong một trận chiến, bên này đợi bên kia xuất quân trước. Cuối cùng, người Philitinh cử nhà vô địch của họ, một chiến binh mạnh mẽ tên là Gôliat. Ngày qua ngày, hắn thách thức Ítraen gửi nhà vô địch đến chiến đấu với hắn. Ai thắng trong trận đánh đối đầu này sẽ giành chiến thắng cho toàn bộ quân đội của mình, và quân đội của kẻ thua cuộc sẽ trở thành nô lệ.

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Sống khiết tịnh, ơn gọi cho mọi người

Chúng ta đang sống trong một xã hội đang đề cao khuynh hướng hưởng thụ. Lạc thú đang là đối tượng được nhiều người ham muốn, thậm chí nhiều người còn cho rằng nền văn hóa hiện nay là văn hóa hưởng thụ! Chính vì vậy, nhiều người chủ trương gạt bỏ mọi ràng buộc luân lý về tính dục để chiều theo và thậm chí, tôn sùng bản năng tính dục. Điều đó đang làm cho xã hội ngày càng biến chất, con người ngày càng bị tha hóa, những vết thương đang ngày càng bị khoét sâu nơi cá nhân cũng như gia đình. Hậu quả của một lối sống buông thả đang tác động ngày càng mạnh mẽ trên đời sống thể lý, tâm lý cũng như tâm linh của nhiều người.
Do đâu mà có hiện trạng này? Nếu phân tích kỹ lưỡng ta sẽ thấy có rất nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, theo quan điểm của người viết, nguyên nhân chính của hiện trạng này là con người hôm nay đang đánh mất dần ý nghĩa cao quý của sự khiết tịnh. Chính vì không nhận thức đủ giá trị cao quý của sự khiết tịnh hoặc cho rằng khiết tịnh chỉ dành cho ai sống bậc tu trì nên nhiều người dễ dàng buông thả chính mình. Chính vì vậy bài viết này nhằm khám phá lại đời sống khiết tịnh như một ơn gọi và bằng cách nào ta có thể đáp trả lại ơn gọi này.
  1. Khiết tịnh, một ơn gọi
Giáo lý Hội thánh Công giáo khẳng định: “Đức khiết tịnh là một nhân đức luân lý. Nhưng đó cũng là hồng ân của Thiên Chúa, một ân sủng, một hoa trái của Thánh Thần (x. Gl 5, 22). Chúa Thánh Thần ban cho người tín hữu sức mạnh để noi theo (x. 1Ga 3, 3) sự thanh khiết của Đức Ki-tô” (số 2345). Nói đến ơn gọi trước hết ta cần xác định ba điều: Ai gọi, gọi ai và gọi để làm gì?
    1. Ai gọi
Dĩ nhiên ta cần khẳng định ngay rằng chính Thiên Chúa kêu gọi mỗi người chúng ta sống đức khiết tịnh. Trong bài giảng Trên Núi, Đức Giê-su đã dành mối phúc thứ sáu cho những ai “có tâm hồn trong sạch” (Mt 5,8). Tâm hồn là trung tâm của nhân cách luân lý, cũng chính “từ trong lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình và tà dâm” (Mt 15, 19). Theo Giáo lý của Hội thánh thì người có tâm hồn trong sạch là những ai biết dùng trí khôn và ý chí để sống thánh thiện như Thiên Chúa đòi hỏi, đặc biệt trong ba lãnh vực: bác ái, khiết tịnh, yêu mến chân lý và gìn giữ đức tin (x. GLHTCG, số 2518). Như vậy, lời mời gọi hãy “có tâm hồn trong sạch” cũng đồng nghĩa với lời mời gọi hãy có tâm hồn trinh khiết. Đây là lời mời gọi xuất phát từ chính Thiên Chúa và được công khai qua lời nói của Đức Giê-su.
Chỗ khác, Đức Giê-su không chỉ đồng tình với việc lên án ngoại tình, nhưng Ngài còn đi xa hơn khi đòi hỏi người ta không được có cái nhìn bất chính (x. Mt 5, 27-28). Cái nhìn bất chính, nghĩa là nhìn với sự ham muốn thì cũng là ngoại tình trong tư tưởng rồi. Qua đó, Đức Giê-su muốn mời gọi chúng ta hãy thanh luyện một cái nhìn thanh khiết để xứng đáng là môn đệ chân chính của Người.
    1. Gọi ai
Những lời mời gọi trên của Đức Giê-su không chỉ dành cho các tông đồ mà thôi nhưng là cho tất cả những ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su, nghĩa là cho những ai muốn tin và theo Người. Thực vậy, sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo cũng khẳng định mỗi người hãy giữ đức khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình. Người thì trong bậc trinh khiết hay độc thân của đời thánh hiến, người khác thì trong bậc gia đình hay độc thân, tùy theo luật luân lý xác định. Người có gia đình được mời gọi giữ đức khiết tịnh trong đời sống vợ chồng, người độc thân thì giữ đức khiết tịnh khi sống tiết dục. Như vậy, khiết tịnh không phải là “độc quyền” của những người sống đời dâng hiến như nhiều người lầm tưởng. Trái lại, khiết tịnh là lời mời gọi dành cho tất cả mọi người. Ki-tô hữu là người đã “mặc lấy Đức Ki-tô” (Gl 3, 27), khuôn mẫu của đời sống khiết tịnh. Ai tin vào Đức Ki-tô đều được mời gọi sống đời khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình. Thánh Am-rô-xi-ô đã đúc kết lại trong ba hình thức khiết tịnh như sau: khiết tịnh của bậc hôn nhân, khiết tịnh của người góa bụa và khiết tịnh của kẻ đồng trinh (x. số 2348-2349).
    1. Gọi để làm gì
Câu hỏi thứ ba cũng đồng nghĩa với câu hỏi khiết tịnh là gì? Tại sao ta phải sống đức khiết tịnh?
Trước hết cần khẳng định khiết tịnh là một nhân đức. Là một nhân đức, khiết tịnh là lời mời gọi nhằm thăng tiến đời sống chứ không phải để hủy diệt hay cấm cản con người. Khiết tịnh không nhằm hủy bỏ khả năng tính dục nhưng hướng dẫn bản năng đó theo đòi hỏi của đức ái. Khiết tịnh cũng không phải là sự ức chế của tính dục nhưng điều khiển những ham muốn tính dục để hướng đến tình yêu đích thực.
Theo quan điểm Ki-tô giáo, khiết tịnh không chỉ đơn thuần là khả năng tự chủ bản năng tính dục vì những đòi hỏi luân lý, nhưng sâu xa hơn, vì con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,26). Thánh ý Thiên Chúa là muốn cho chúng ta sống thánh thiện để nên thánh, chính vì vậy, chúng ta hãy xa lánh sự gian dâm hay ô uế (x. 1Tx 4, 3-7). Để thực hiện được điều này, mỗi người, tùy theo ơn riêng Chúa ban, hãy sống khiết tịnh trong bậc sống của mình (x. 1Cr 7, 1-9) để được phần thưởng là sự sống bất diệt (GLHTCG, số 2347).
Hơn nữa, thánh Phao-lô khuyên mỗi người chúng ta hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô chứ đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng. Mặc lấy Đức Ki-tô cũng có nghĩa là loại bỏ những việc làm đen tối như chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng để cầm lấy vũ khí của sự sáng (x. Rm 13, 12-14). Mặc lấy Đức Ki-tô, tức là để cho Đức Ki-tô hướng dẫn và làm chủ toàn vẹn con người của mình, từ suy nghĩ, ước muốn cho tới hành động. Mặc lấy Đức Ki-tô là hiến toàn thân cho Thiên Chúa và dùng các chi thể của mình như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa chứ không phải để làm điều bất chính, phục vụ tội lỗi (x. Rm 6, 13-14). Như vậy, giá trị của đức khiết tịnh không phải ở chỗ để cho lý trí làm chủ các bản năng tính dục con người cho bằng là để Chúa Ki-tô làm chủ tất cả con người của ta, cả lý trí lẫn bản năng của ta.
  1. Khiết tịnh, một lời đáp trả
Như đã trình bày ở trên, khiết tịnh là một ơn gọi xuất phát từ Thiên Chúa để mời gọi con người sử dụng thân xác và tính dục đúng mục đích và nhất là để tôn vinh Thiên Chúa. Là một ơn gọi, khiết tịnh cũng cần có sự đáp trả của con người. Con người đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa bằng cách thanh luyện cái nhìn của mình để có thể tôn trọng thân xác và sử dụng tính dục đúng mục đích.
    1. Thanh luyện cái nhìn
Trước hết cần phải xác định cái nhìn ở đây không đơn thuần chỉ là một tác động của đôi mắt. Tác động của đôi mắt chỉ là hình thức bên ngoài, là một bổn phận của giác quan, do đó nó vô thưởng vô phạt. Tính luân lý của hành vi không nằm ở ánh mắt nhưng nằm ở nội dung bên trong, tức là động lực hay hệ quả của ánh mắt. Chẳng hạn hành động nhìn người phụ nữ thì không tốt cũng chẳng xấu, nhưng nếu động lực thúc đẩy ta nhìn là thõa mãn dục vọng hay việc nhìn đó khơi lên những ước muốn bất chính thì cái nhìn đó lại trở thành tội. Bởi vậy Đức Giê-su đã nói, nếu nhìn người phụ nữ “mà thèm muốn” thì thà móc mắt mà ném đi để khỏi phạm tội. Đó là cái nhìn không trong sạch, cái nhìn đầy tà tâm, đầy ham muốn, đầy nhục dục. Đức Giê-su nói nhìn như thế thì cũng chính là ngoại tình ở trong lòng rồi (x. Mt 5,27-29).
Do vậy, để tránh những ước muốn và những hành động lỗi đức khiết tịnh, chúng ta cần khởi đi từ việc thanh luyện cái nhìn của mình. Cái nhìn trong sạch xuất phát từ ý hướng trong sạch, nghĩa là luôn nhắm đến cứu cánh đích thực của con người là lo tìm kiếm và chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa trong mọi sự (GLHTCG, số 1752).
Xuất phát từ ý hướng trong sạch, con người mới có thể có cái nhìn trong sáng, và nhờ đó kiểm soát được tình cảm và trí tưởng tượng, can đảm khước từ những tư tưởng dâm ô và làm chủ được các hành động của mình. Nhờ thế ta mới có thể tôn trọng thân xác mình và thân xác người khác.
    1. Tôn trọng thân xác
Như vậy, theo cái nhìn Ki-tô giáo, con người (bao gồm toàn thể hồn xác) là hình ảnh Thiên Chúa, thân xác con người là phần thân thể của Đức Ki-tô và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Dó đó, chúng ta có bổn phận phải tôn vinh Thiên Chúa nơi chính thân xác chúng ta (x. 1Cr 6,12-20).
Chính vì thế, dù sống đời độc thân hay trong tương quan gia đình, mỗi người tín hữu đều được mời gọi phải tôn trọng thân xác. Với người sống đời độc thân, họ không được phép sử dụng thân xác theo sở thích, không được làm thân xác mình bị tha hóa (như thủ dâm). Cũng vậy, họ được mời gọi tôn trọng thân xác người khác như là tôn trọng thân xác của chính mình vậy. Hai điều trên cũng được áp dụng cho những người sống trong tương quan vợ chồng. Hơn nữa, họ còn được mời gọi tôn trọng thân xác người bạn đời của mình nữa. Là vợ chồng, điều đó không có nghĩa là họ được sử dụng tính dục theo ý riêng khác với mục đích Thiên Chúa mong muốn. Tóm lại, Thiên Chúa và Giáo hội luôn mời gọi mỗi người hãy sử dụng thân xác để tôn vinh Thiên Chúa và xây dựng cho nhau.
    1. Sử dụng tình dục đúng mục đích
Trước hết, Giáo hội khẳng định “Những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quý và chính đáng. Được thi hành cách thực sự nhân linh, những hành vi ấy biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn” (x. GS 49, 2). Như vậy, những hành vi tình dục trong quan hệ vợ chồng là điều chính đáng. Thế nhưng, vấn đề đặt ra là trong mức độ nào thì những hành vi này là chính đáng?
Qua lời dạy của hiến chế Gaudium et Spes của công đồng Vaticanô II vừa nêu trên (và sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo trích lại ở số 2362), ta thấy chỉ những hành vi nào thực hiện sự kết hợp “thân mật và thanh khiết” và được thi hành cách “thực sự nhân linh” mới là những hành vi cao quý và chính đáng. Đó mới thực sự là những hành vi diễn tả tình yêu vợ chồng và hướng đến mục đích sinh sản và giáo dục con cái (GLHTCG, số 2353). Đây cũng chính là mục đích cao cả của tình dục trong đời sống hôn nhân. Nếu ta sử dụng khả năng tình dục ngoài đời sống vợ chồng hay nếu ta ham muốn hưởng thụ tình dục cách vô độ thì nó trở thành sai trái vì nhằm thỏa mãn bản thân chứ không nhằm mục đích truyền sinh và kết hợp trong tình yêu.
Thực ra, đức mến phải là linh hồn của mọi nhân đức. Dưới ảnh hưởng của đức mến, đức khiết tịnh là trường dạy tự hiến. Người sống khiết tịnh chỉ thực hiện hành vi tính dục vì mục đích trên như một sự tự hiến cho nhau trong tình yêu. Qua đó, họ trở thành nhân chứng của Thiên Chúa trung tín và yêu thương (GLHTCG, số 2346).
Tóm lại, đức khiết tịnh không phải là một điều tiêu cực nhưng là một nhân đức, một ơn gọi dành cho tất cả mọi người. Sống đức khiết tịnh là sống một sự tự do khỏi những ham muốn của dục vọng để hướng đến những mục đích cao quí hơn. Sống khiết tịnh là thể hiện một tình yêu trọn vẹn, một đức ái hoàn hảo theo gương Đức Ki-tô. Sống khiết tịnh là một lời chứng cho một đức tin kiên vững vào tình yêu và sự trung tín của Thiên Chúa. Để đáp trả lại lời mời gọi cao quý nhưng cũng đầy thách thức này, mỗi người cần gia tăng cầu nguyện để xin Chúa cho ta đủ ý thức, đủ can đảm và đủ yêu thương đế sống chứng nhân cho Chúa trong thời đại này.


Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

Vươn tới Thượng Đế, con đường hiện sinh đích thực

1.      Ý thức hiện sinh
Theo Jaspers, vũ trụ này chia làm ba cấp độ, cấp độ sự vật, cấp độ hiện sinh và cấp độ siêu việt. Từ cấp độ sự vật sang cấp độ hiện sinh cần có một bước nhảy mà không phải ai cũng làm được. Chính vì vậy Jaspers cho rằng nhiều người sinh ra là người nhưng chưa hẳn đã làm người, tức là đã vươn lên tới mức hiện sinh như một nhân vị tự do và độc đáo. Do vậy những người sống vô ý thức, vô trách nhiệm, những người còn để mình bị nô lệ bởi dư luận, bởi những đoàn thể, những tập truyền thì họ mới chỉ là những đơn vị người chứ chưa phải là những nhân vị tự do.
Mọi hiện hữu đều phải hướng lên và vươn lên một cách mạnh mẽ. Do vậy một con người tự do thì phải biết ý thức về quyền tự do của mình, đồng thời cũng ý thức sâu xa về trách nhiệm làm người của mình. Ý thức hiện sinh tức là phải biết mình sống trong cuộc đời này để làm gì. Mình phải đặt những câu hỏi để tìm ra ý nghĩa cuộc đời của chính mình. Một khi đã xác định được ý nghĩa cuộc đời thì phải tự chọn lấy cách thức sống, phương thế hành động để làm sao đạt được mục đích và ý nghĩa đó. Ý thức được những điều trên mới là ý thực hiện sinh đích thực, ý thức đó làm cho con người trỗi vượt hơn các sự vật và tiến lên không ngừng. Cuộc sống con người là chuyển động tiến tới không ngừng cho tới khi ta đạt được ý nghĩa mà vì nó ta đi vào hiện sinh này.
Ý thức hiện sinh của Jaspers không dừng lại ở chỗ tự ý thức về nhân vị tự do và độc đáo của mình nhưng còn là ý thức về mối thông giao với tha nhân và nhất là mối tương quan giữa mình với siêu việt là nguyên ủy của mình. Nếu không giữ mối tương quan này thì hiện sinh không trung thực hay đúng hơn hiện sinh chưa đúng với trọn vẹn ý nghĩa của nó.

2.      Ý thức nhân vị
2.1.            Tìm một ý nghĩa
Hiện sinh khác với sinh tồn ở chổ sinh tồn coi sự sống là ý nghĩa của cuộc đời mà không cần biết sống như thế nào và sống để làm gì. Ngược lại, hiện sinh trước hết là đi tìm ý nghĩa cao quý của cuộc đời và thể hiện nó một cách độc đáo.
Dĩ nhiên đây là công việc của mỗi người. Mỗi người sẽ phải có trách nhiệm đi tìm câu trả lời cho mình và có lẽ mỗi người cũng sẽ có một câu trả lời khác mang nét độc đáo riêng của mình. Tuy nhiên, Jaspers cho thấy rằng ý nghĩa đích thực của hiện sinh phải là vươn tới siêu việt, tức là tìm về với Thượng Đế là nguyên ủy của mình. Điều này quả thực rất phù hợp với đức tin Công giáo.
Quả thực, theo Thánh kinh, con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và do đó con người sẽ còn khắc khoải lo âu cho tới khi nào được về với chính Đấng tác tạo nên mình (thánh Augustin). Trái cấm đã mở mắt con người và con người ý thức được rằng từ đây giữa mình và Thiên Chúa đã có một khoảng cách. Bước chân con người rời khỏi vườn Eđen khởi đầu cho hành trình tìm kiếm chính mình và cũng là để tìm về khu vườn xưa. Thiên Chúa đưa con người ra khỏi vườn Eđen để hứa ban cho con người một khu vườn khác đẹp hơn hoàn hảo hơn, khu vườn không có trái cấm, đó chính là Nước trời. Con người phải vươn lên trong hành trình làm người để với ơn cứu độ con người được trở về với nguyên ủy của mình.
Thế nhưng trong hành trình làm người này, không phải ai cũng nhân ra hay xác định đúng mục đích và ý nghĩa đời mình. Đó là lý do tại sao ngày nay nhiều người rời xa đức tin hay sống đức tin cách hời hợt. Xã hội và tôn giáo vẫn luôn cung cấp nhiều ý nghĩa và mục đích làm người nhưng những ai chỉ dừng lại ở những mục đích hay ý nghĩa tầm thường thì cuộc sống của họ chưa vươn tới tầm hiện sinh đích thực. Hiện sinh đích thực chỉ có khi ta dám lựa chọn và xây dựng chính mình dựa trên những mục đích và ý nghĩa có giá trị cao đẹp và hướng về siêu việt.
2.2.            Xây dựng chính mình
Jaspers nói rằng hiện sinh chỉ bắt đầu khi con người ý thức sâu xa cũng như chủ động để tự xây dựng nhân cách và định mệnh của mình. Ông nói cách mạnh mẽ rằng: tôi chỉ là cái tôi do chính tôi tạo nên … cái tôi trung thực đó không ở sau lưng tôi, cũng không phải là cái tôi hiện tại nhưng là cái tôi ở trước mặt tôi, là cái tôi đang trở thành, là cái mà tôi quyết tâm để trở nên.
Karl Jaspers không dừng lại ở cái tôi hiện tại nhưng ông luôn muốn tiến về phía trước. Chúng ta không chỉ xác định cho mình một mục đích để rồi để đó mà chiêm ngưỡng. Chúng ta cũng không tự thỏa mãn với ý nghĩa đã đề ra. Chúng ta chỉ được thỏa mãn khi nào hoàn thành chính mình, tức là đã tìm về được với nguyên ủy của mình. Để đạt được điều đó, mỗi người phải tự xây dựng chính mình.
Xây dựng chính mình còn là xác định cho mình lối sống và cách thế thể hiện niềm tin của chính mình. Nói tôi có đức tin mà không sống đức tin cũng sống như nói đời tôi có một ý nghĩa và mục đích nhưng thực tế ta chẳng làm gì. Xây dựng chính mình trong đời sống đức tin là sự trưởng thành không ngừng trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Xây dựng chính mình là sự hoàn thiện mình mỗi ngày.
Một khi đã xác định mục tiêu và ý nghĩa trong Thiên Chúa chúng ta phải xây dựng đời mình trong đời sống đức tin. Cái tôi không lệ thuộc quá khứ, không thỏa mãn với hiện tại nhưng hướng về tương lai, điều này mở ra cho những khát vọng của con người. Được như thế, tôi sẽ không mặc cảm với quá khứ hèn yếu của tôi, tôi sẽ không thất vọng với những vấp ngã hiện tại của mình. Cái tôi hướng về tương lai cho phép tôi đứng lên và tiến bước không ngừng.
Đời sống đức tin cần được xây dựng trên cái nhìn như thế. Đức tin là sự tiến bước trong hy vọng. Hiện tại tôi có thể bất toàn nhưng với cái nhìn đức tin tôi tin tưởng giao phó đời mình cho sự dẫn dắt của Chúa. Đời sống đức tin đòi hỏi một sự trưởng thành không ngừng. Tôi tin tưởng, tôi tiến bước tôi thất vọng và lại tin tưởng. Cuộc đời sẽ thử thách cho đến khi nào tôi hoàn toàn đặt niềm tin vào bàn tay Thiên Chúa.
2.3.            Tự do nhân vị
Ý thức nhân vị là ý thức đời ta có một mục đích và ý nghĩa, từ đó ta xây dựng đời mình và sống đời sống đó một cách tự do. Sống tự do là cách thức thể hiện nét hiện sinh trọn vẹn nhất. Tự do là khả năng cho thấy con người khác với sự vật và tự do cũng cho thấy con người không bị “quy định” bởi Thượng đế. Theo Jaspers, ý nghĩa sâu xa và hiện sinh của tự do là tự quyết và tự chọn. Đây cũng là điều rất thích hợp với đức tin Công giáo. Con người được mời gọi trở về với nguyên ủy của mình là Thiên Chúa nhưng con người không bị ép buộc. Con người có tự do để tự chọn và tự quyết hành trình của mình.
Thế nhưng phải hiểu và thực hành như thế nào mới xứng đáng là tự do của một nhân vị hướng về siêu việt.
Tự do không phải là hành động theo thúc đẩy bừa bãi của dục vọng nhưng là hành vi gắn liền với ý thức và trách nhiệm. Ý thức và trách nhiệm tức là ta phải băn khoăn suy nghĩ giữa nhiều con đường để lựa chọn. Điều này không có nghĩa là tự do của ta bị hạn chế. Ý  thức và trách nhiệm không phải là những ngoại lực tạo áp lực lên tự do của ta nhưng chính trong ý thức và trách nhiệm, hành vi tự do của ta mới mang tính nhân vị và hướng về siêu việt. Ý thức và trách nhiệm trở thành một luật của chính ta và cho chính ta.
Điều này có liên hệ đến cách sống đức tin của chúng ta. Ngày nay người ta rời bỏ Giáo hội một phần là vì họ thấy Giáo hội không đáp ứng được những đòi hỏi tự do của thời đại. Con người ngày nay bị ảnh hưởng bởi lối sống tự do thực dụng và do đó họ nhìn thấy trong Giáo hội chỉ toàn là những ràng buộc của luật lệ: Nào là không được ly dị, không được phá thai, không được sử dụng bao cao su, v.v.. Đó đây có những chống đối Giáo hội chỉ là vì họ chưa nhận ra giá trị thực sự của tự do nhân vị.
Ngay cả chúng ta, những người đang sống đức tin trong lòng Giáo hội, đôi khi chúng ta cũng sống với tinh thần nệ luật. Tôi hành động thế này là vì luật; tôi không hành động thế kia là vì luật không cho phép. Cuối cùng, có thể chúng ta vẫn sống đạo cách ngoan ngoãn nhưng xét cách sâu xa chúng ta chưa sống tự do đích thực. Hành động cách tự do xứng với nhân vị là tôi hành động như thế là vì tôi nhận ra nét cao cả của hành động đồng thời qua đó tôi thể hiện nhân vị của mình. Tôi hành động vì tôi đáng hành động như vậy chứ không phải vì luật. Sống được tinh thần tự do đích thực này tôi vẫn chu toàn luật nhưng không lệ thuộc vào luật, luật không phải là rào cản phải vượt qua nhưng là yếu tố giúp tôi thể hiện nhân vị của mình. Nếu hiểu và sống được tinh thần này thì tự do không chỉ giúp tôi thể hiện nhân vị của mình nhưng tự do này còn hướng tôi tiến đến gần nguyên ủy của mình là Thiên Chúa.
3.      Ý thức thông giao
Ý thức nhân vị của chính mình cũng đống nghĩa với việc ý thức nhận vị của người khác và tương quan với họ như là những nhân vị độc đáo và hiện sinh. Mối tương quan này được Jaspers diễn tả qua chữ thông giao. Như vậy, thông giao là mối tương quan của hai hiện sinh thực sự, tức là hai hiện sinh khác nhau, độc lập với nhau, thâm chí xung khắc với nhau nhưng mối tương quan này được thể hiện trong tình yêu thương. Jaspers cho rằng đấu tranh là nền tảng của thông giao. Không có đấu tranh thì không thể có tương quan yêu thương thực sự. Thông giao được ví như mối tình thiếu xung khắc là mối tình thiếu sâu sắc. Trong thông giao, hai yếu tố đấu tranh và yêu thương phải ngang bằng nhau.
Tư tưởng này làm vang vọng lại lời của Đức Giêsu: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa?” ( Lc 6, 32) hay “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6, 27). Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu vô vị lợi, một lời mời gọi mà có lẻ chỉ khi nào mức hiện sinh của ta tiến gần tới Thiên Chúa ta mới thực sự có được. Trên con đường đi tới của hiện sinh, chúng ta nhất thiết phải đạt được ý thức thông giao của Jaspers. Ý thức này đòi buộc chúng ta nhìn tha nhân như chính họ là. Một tương quan thực sự không nhất thiết là một tương quan dễ dàng. Một tương quan dễ dàng đôi khi là một tương quan hời hợt. Dưới cái nhìn đức tin, mỗi người đều mang trong mình hình ảnh Thiên Chúa, mỗi người đều là đến thờ của Chúa Thánh Thần. Do đó mỗi người đều là một nhân vị tự do và có giá trị cao cả.
Ý thức giá trị của mình đã khó, ý thức giá trị của người khác còn khó hơn. Trong tương quan với tha nhân, chúng ta phải đặt tha nhân ngang hàng với mình. Phải có cái nhìn tôn trọng chúng ta mới nhận ra những nét độc đáo và riêng biệt của tha nhân. Đây là tương quan hai chiều chứ không phải tương quan một chiều. Tương quan đích thực phải làm sao cho cả hai cùng lớn lên, cùng trưởng thành, cùng tiến về đích trong khi vẫn giữ những nét riêng của mình.
Tương quan này thực sự cần thiết trong đối thoại liên tôn, trong khi rao giảng Tin mừng cũng như trong công việc bác ái tông đồ. Đối thoại liên tôn cũng như rao giảng Tin mừng phải đặt nền tảng trên việc hiểu biết nhau, nhận ra những giá trị của nhau và giúp nhau tìm về nguyên ủy của mình. Thiếu cái nhìn tôn trọng, bình đẳng nhưng khác biệt và thạm chí xung khắc chúng ta sẽ khó đối thoại. Chân lý chỉ được nhìn thấy trong đối thoại thực sự mà đối thoại chỉ được xây dựng trên khác biệt nhưng bình đẳng và tôn trọng.
Cũng vậy trong việc mục vụ bác ái tông đồ, chúng ta hay có cái nhìn của người làm ơn. Chúng ta tự đặt mình ở địa vị khác cao hơn, trọng hơn để tương quan với người khác. Việc coi người khác là kẻ mang ơn, là người thụ động nhận sự giúp đỡ của mình là một hình thức đặt tha nhân ở dưới mình. Đây là một tương quan thiếu bình đẳng và theo Jaspers đây chưa phải là thông giao thực sự.
Chỉ khi ta có một ý thức thông giao thực sự, tức là ta xây dựng một tương quan thực sự với tha nhân khi đó ta mới là một hiện sinh đúng nghĩa. Mà theo tư tưởng của Jaspers, một hiện sinh đúng nghĩa phải là một hiện sinh hướng về Siêu Việt Thể chính là Thượng Đế.
4.      Soi vào hiện sinh, con đường tới siêu việt
Như đã trình bày, hiện sinh của Jaspers là hiện sinh trong tương quan với Siêu Việt Thể. Hiện sinh chỉ có ý nghĩa khi đặt mình trên con đường tiến tới gần Thượng Đế là nguyên ủy của mình. Vì thế có thể nói Siêu Việt thể là cùng đích của hiện sinh. Giống như Augustin, Jaspres cho rằng: hiện sinh không thể an nghĩ trong mình nó. Nó chỉ được thỏa mãn trong hữu thể siêu việt. Không có tương quan này hiện sinh không đáng là hiện sinh nữa. Vậy câu hỏi đặt ra là làm thể nào để hiện sinh đạt tới nguyên ủy của mình.
Jaspers cho rằng nếu dùng lý luận để tìm Thượng Đế thì Thượng Đế chỉ là một sản phẩm của tâm trí con người. Do đó chúng ta không thể tiến tới Thượng Đế bằng con đường lý luận nhưng bằng con đường của tượng số. Tượng số là những biểu tượng qua đó ta nhận ra cái vô cùng, cái cùng kỳ lý của vũ trụ. Điều này có nghĩa là vạn vật có một ý nghĩa sâu xa của nó mà ai với mức hiện sinh của mình sẽ chịu khó suy nghĩ thì qua đó sẽ gặp được đấng Siêu việt. Jaspers đề cập đến bốn loại tượng số là vũ trụ, ý thức con người, lịch sử tinh thần con người và hiện sinh của mỗi nhân vị. Trong bốn loại trên thì loại tượng số sau cùng là quan trọng nhất. Như đã nói ở trên hiện sinh đích thực là hiện sinh trong tương quan với Siêu Việt Thể cho nên qua hiện sinh chúng ta có thể và dễ dàng nhận biết Siêu Việt Thể nhất.
Như trên đã phân tích, tự do chính là yếu tố cao quý nhất của hiện sinh. Tuy nhiên cũng vì là hiện sinh nên con người còn bị giới hạn bởi thân xác trong hoàn cảnh sống hàng ngày. Vậy nên tự do của hiện sinh cũng bị giới hạn hay điều kiện hóa với những hoàn cảnh sống cụ thể, vào những tâm tình và giáo dục của ta. Như vậy, trên con đường tiến lên siêu việt, con người gặp phải bức tường là những giới hạn của mình. Chính những bức tường này giúp cho ta chạm trán với Đấng Siêu Việt. Chính trong những hoàn cảnh bị giới hạn như đau khổ, tội lỗi, bệnh tật và cái chết mà ta dễ tiếp xúc với Siêu việt hơn.
Chính trong những kinh nghiệm đau thương mà con người nhận thấy những giới hạn, những yếu đuối, những bất toàn của mình. Và cũng chính trong những hoàn cảnh đó, con người lại càng thấy mình cần đến Thượng đế và nhất là càng dễ tiếp xúc và cảm nhận sự hiện diện của Thượng Đế hơn.
Kinh nghiệm đức tin chính là kinh nghiệm gặp gỡ. Nhìn lại lịch sử đời ta, nhất là những lúc khó khăn thất vọng chúng ta sẽ dễ nhận thấy bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Những tri thức đến từ lý trí dĩ nhiên vẫn rất cần để soi sáng và hướng dẫn đời sống đức tin của ta. Tuy nhiên một cuộc gặp gỡ và tiếp xúc thật sự chỉ xảy ra trong kih nghiệm cuộc sống hàng ngày. Đó cũng chính là kinh nghiệm của người Do Thái. Qua bao biến cố đau thương trong lịch sử cứu độ, dân Israen đã tha thiết kêu cầu và nhận ra sự hiện diện quan phòng của Thiên Chúa. Những kinh nghiệm như thế chúng ta có thể gặp thấy trong rất nhiều thánh vịnh, chẳng hạn như : Sóng tử thần dồn dập chung quanh, thác diệt vong làm tôi kinh hãi,… Lúc ngặt nghèo tôi kêu cầu Chúa, kêu lên Người là Thiên Chúa của tôi. Từ thánh điện, Người đã nghe tiếng tôi cầu cứu, lời tôi khấn nguyện vọng đến tai Người. (x.Tv 18, 5-7). Như vậy, chính khi nhìn lại những kinh nghiệm trong cuộc hiện sinh của chính mình hay của những hiện sinh xung quanh mà ta nhận ra sự hiện diện của Đấng Siêu Việt.