3. KHAO KHÁT VÀ NỖ LỰC
CHIẾN ĐẤU
Người tu sĩ phải khao khát và hăng hái kiếm
tìm ân huệ của sự công chính Nước Trời ; ở giữa và cùng với dân Chúa, người tu
sĩ phải nỗ để kín múc lấy ân sủng của sự trưởng thành tròn đầy nơi Đức Kitô.
3.1. Tầm quan trọng của khao khát
Chúng ta phải nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của “khao khát”. Khao khát
nghĩa là để ân sủng của Thiên Chúa quyến rũ mọi động lực cá nhân của chúng ta,
để chúng ta chuyển động lực đó đến với ân sủng và để cho ân sủng dẫn dắt. Nuôi
dưỡng những khát khao tốt là con đường đúng đắn nhất để đón nhận trải nghiệm
của ân sủng. Những khát khao tốt được nuôi dưỡng bởi những ai không quên đi lời
họ đã nghe được, và luôn chiêm niệm những ân sủng Chúa, đồng thời nỗ lực để
không đánh mất sự chiêm ngắm những dấu vết của Thiên Chúa qua lịch sử. Trong
phạm vi nào đó, khi ân sủng Thiên Chúa luôn được duy trì qua việc chiêm ngắm và
thấu hiểu ; ở cùng phạm vi đó, thì ân sủng ấy được khát khao chiêm niệm sâu
hơn. Khao khát đánh thức một tình yêu mãnh liệt. Khao khát làm cho lời cầu
nguyện được thốt ra. Như thánh Âu-Tinh đã viết :
Tại sao Người muốn
chúng ta cầu nguyện, trong khi Người biết trước những gì chúng ta cần khi chúng
ta xin Người, có thể làm chúng ta lúng túng, bối rối nếu chúng ta không nhận ra
rằng Thiên Chúa không quan tâm những gì chúng ta muốn (vì Ngài không thể không biết), nhưng đúng hơn là muốn chúng ta
luyện tập sự khao khát nhiều hơn qua lời cầu nguyện, ngõ hầu chúng ta có thể
lãnh nhận những gì Người đang chuẩn bị cho chúng ta. Ân huệ của Người quả thực
vô cùng lớn lao, nhưng khả năng của chúng ta thì quá nhỏ bé và giới hạn để nhận
lãnh. Đó là lý do tại sao chúng ta được khuyên rằng : hãy gia tăng những khát khao của anh em…[1]
3.2. “Cầu nguyện phải khao khát”. Lời cầu
nguyện là một sự khao khát được bày tỏ trước Thiên Chúa.
Thăng tiến trên con
đường của Chúa được khởi đi khi chúng ta đáp lại ân huệ vô tận của Thiên Chúa
bằng những khát vọng thánh, khi chúng ta chấp nhận mình để ân sủng thử thách và
dẫn dắt. Khao khát là điều kiện con người cần có để bước theo Chúa. Đó chính là
một chiều kích của đức tin.
Việc
này không do chúng ta thúc ép Thiên Chúa để Người kêu gọi chúng ta tới ơn gọi
cao quý : hãy chia sẻ trong sự công chính của Chúa Giêsu và trong sự viên mãn
của dân Thiên Chúa. Chẳng phải do lòng đạo đức của chúng ta, nhưng ơn gọi mới
là nguyên nhân để ân sủng của sự công chính tuôn trào, nhờ đó Thiên Chúa Cha
tha thứ tội lỗi cho chúng ta và chuyển thông sự công chính của Ngài cho chúng
ta. Chúng ta không chỉ có tội. Nhưng chúng ta còn là những tội nhân. Những
thành quả chúng ta đạt được không thể giúp chúng ta kín múc được ân huệ của sự
tuyển chọn và công chính. Chỉ có tình yêu Đức Kitô dành cho chúng ta, nhờ vào
việc Người nối kết mật thiết chúng ta với chính Người đến độ Người biến đổi chúng
ta thành thân thể Người, đến độ Người kết hợp với chúng ta trong chính Người,
mới có thể giải thích cho sự tuyển chọn và sự công chính của chúng ta[2].
Chính Người đã yêu chúng ta trước, và chết vì chúng ta khi chúng ta còn là
những tội nhân, khi chúng ta còn là thù địch của Người (x. Rm 5, 6-10).
Nhận
thức về sự bất lực của chúng ta để nhận lấy con đường theo Chúa Giêsu và để giữ
vững niềm tin vào con đường ấy, ngay cả khi chúng ta đã bắt đầu khởi hành. Con
đường này dẫn chúng ta đến việc khẳng định sự ưu việt của ân sủng trong cuộc
sống, để tuyên xưng rằng “chúng ta có gì
mà chúng ta đã không lãnh nhận” (x. 1Cr 4, 7). “Vậy người ta được chọn không phải vì
muốn hay chạy vạy, nhưng vì được Thiên Chúa thương xót” (Rm 9, 16). Chỉ khi Thiên Chúa tỏ lòng thương xót
cho chúng ta (dấu chỉ), chúng ta mới
có thể đáp lại lời mời gọi của Người (nghe
theo). Thật cần thiết để chờ đợi “giờ
của Chúa”, khi Người đứng trước cửa và gõ (x. Kh 3, 20). Khi mọi thứ dựa trên ân sủng của Thiên Chúa, thì
chúng ta phải chắc chắn “tin rằng Đấng đã
bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công
việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Kitô Giêsu quang lâm” (CC 51 ; x.
Phil 1,6). Kiên trì trong ơn gọi của chúng ta và trong hành trình bước theo
và trưởng thành, là ở trong tay Chúa. Khát khao và luôn tin tưởng vào lời hứa
của Người sẽ mở lòng chúng ta để lãnh nhận ân sủng cực trọng.
Có thể nào diễn ra trong chính chúng ta
kế hoạch bước theo và bắt chước Chúa Giêsu, mà Tin Mừng mời gọi chúng ta ? Đối
với con người thì không thể ; nhưng với Thiên Chúa thì có thể. Nó vượt xa điều
này : không chỉ là vấn đề của khả năng. Thiên Chúa đã hứa với chúng ta rằng
Người sẽ dẫn chúng ta vượt lên trên tình yêu nhưng không của Người, để đến với
việc theo Chúa Kitô cách tròn đầy. Điều duy nhất chúng ta có thể đóng góp cho
hành trình này là sự đón nhận và khao khát của chúng ta. Mọi sự đều tùy vào
Chúa Thánh Thần, Người hoạt động trong Hội thánh và trong thế giới như Đấng
trung gian. Chúng ta vượt thật xa khỏi những quan điểm của phái Pelagiô[3], vì
họ hiểu tâm linh theo thuật ngữ “sự quan
sát” và “công việc”.
Đời tu là một “con đường”, một hành trình : bước đi trong tính mới mẻ của cuộc
đời, tiến trên con đường của Thiên Chúa.
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, những người
Kitô hữu tiên khởi được mô tả như “những
người thuộc về Con Đường”[4].
Những người sùng đạo thuộc Quram cũng đã gọi giáo phái của họ là “con đường”[5]. Thật
không dễ để xác định ý nghĩa chính xác của từ ngữ này ; nhưng dường như từ ngữ
này có hai ý nghĩa : luân lý và thần học cứu thế. Các môn đệ của Chúa Giêsu tự
xem mình buộc phải thành toàn những đòi hỏi của “đường công chính” (Mt 21, 32) ; hơn nữa, họ tin rằng Chúa Giêsu đã
đặt để họ vào một con đường cứu độ mới[6].
Chúng ta đang tiến trên con đường đó. Theo Đức Kitô là động
lực và là mạo hiểm, và mỗi ngày mở ra những chặng đường mới cho chúng ta khám
phá. Chúng ta phải thấy rằng chúng ta được quyết định để bước trên con đường
đúng đắn : “hãy đặt tâm lòng ta vào Chúa”.
Những bậc thầy về đời sống tâm linh cho chúng ta biết về hành trình nội tâm mà
chúng ta phải theo cho đến khi chúng ta đạt đến đích điểm của ơn gọi, là luôn
gắn bó chặt chẽ và nên một với Đức Giêsu Kitô.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là biểu tượng của con đường
này dưới hình ảnh về bảy căn phòng mà linh hồn lần lượt đi qua cho đến khi nó
đạt đến sự nghỉ ngơi trong căn phòng cuối cùng. Thánh Gioan Thánh Giá lại cho
thấy hành trình tâm linh như “việc leo
núi Carmel”, vốn có thể xảy ra khi linh hồn để mình được thanh khiết, tinh
tuyền trước những ham muốn và tự mở ra với ân sủng, nhờ vào việc dứt bỏ và
chiếm đoạt. Trong những khóa Linh Thao của mình, thánh Inhaxiô Loyola lại đưa
ra một một kiểu mẫu khác về hành trình tâm linh, để đạt đến mục đích đồng nhất
hoàn toàn với thánh ý Thiên Chúa.
Có phải mỗi cộng đoàn chúng ta đều có một linh đạo riêng
biệt và có tính đoàn sủng ? Trước hết, linh đạo của chúng ta là cùng một con
đường như là con đường của Hội thánh : trong, cùng và qua Hội thánh, chúng ta
theo Chúa Giêsu về phương diện lịch sử. Linh đạo nền tảng này được nêu rõ qua
mỗi đặc sủng, chẳng hạn dòng Carmelo hay Inhaxio qua những kiểu mẫu giáo dục,
đoàn sủng được cụ thể hóa. Những nghiên cứu được tìm thấy nơi những vị sáng lập
của chúng ta cho thấy rằng các vị đã theo đường hướng thăng tiến tâm linh cụ
thể mà một vài chặng đường tiến triển khác được phân định rõ. Chẳng phải con
đường này cũng giống kiểu mẫu nguyên thủy cho linh đạo cộng đoàn của chúng ta ?
Chẳng phải chúng ta sẽ tìm thấy nơi đó những đặc điểm to lớn qua linh đạo của
chúng ta như một cộng đoàn với những tiến trình khởi đầu và tiến triển liên tục
? Có một vài nỗ lực được đẩy mạnh trong hệ thống hóa giáo dục tâm linh tại một
vài học viện tu trì nhưng dù cho tiến xa hơn, chúng cũng chỉ được mô tả như mơi
bắt đầu hay phôi thai. Trong tương lai, đây sẽ phải là một nhiệm vụ ưu tiên.
[1]
St. Augustine, Letter to Proba, Ep. 130: 8, 15, 17 – 9, 18: CSEL 44, 56-57,
59-60.
[2]
“Người đã cứu
độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ
chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người
đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su”
(2 Tm 1, 9)
[3]
Theo
từ điển Triết Thần : Người theo Chủ nghĩa Pelagiô, Pelagius [dị thuyết do
Pelagius (354?~418?) chủ xướng cho rằng ở bước đầu ngoài Thánh Sủng, con người
vẫn có thể tự lực đến với ơn cứu độ].
[4]
X. Atcs 9, 2; 19, 9.23; 22, 4; 24, 14. 22.
[5]
X. 1 QS IX 18f.
[6]
X. Hb 16, 17; Jn 14, 16.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét