Hiển thị các bài đăng có nhãn thang 12. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thang 12. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2014

LỰA CHỌN ĐỨNG VỀ CHÚA (Cv 6,8-10)

Ngày 26.12: Thánh Têphanô, tự đạo tiên khởi 
Chúa đã lựa chọn con người qua mầu nhiệm Giáng sinh và Người mời gọi ta hãy lựa chọn đứng về phía Chúa. Têphanô, vị tử đạo tiên khởi của Đức Kitô đã lựa chọn như thế. Ngài đã lựa chọn đứng về Đức Giêsu để làm chứng Người là Con Thiên Chúa, dù cho sự lựa chọn đó đưa ngài đến cái chết. Đây là một cái chết diễm phúc vì nó họa lại cái chết của Thầy Giêsu.

Mỗi ngày chúng ta cũng được mời gọi lựa chọn đứng về phía Chúa, làm chứng cho Chúa, dù cho sự lựa chọn đó đôi lúc gây cho ta những thiệt thòi trong cuộc sống. Thế nhưng, có một điều chắc chắn, đó là lựa chọn đứng về Chúa sẽ không thiệt thòi bao giờ.

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2014

KỲ DIỆU VIỆC CHÚA LÀM

Chúa đã làm cho tôi như thế đó! (Lc 1,25)


Khám phá những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc đời mình, đó là lời mời gọi của Tin Mừng ngày hôm nay. Một tuần trước lễ Giáng sinh, các bài đọc Tin Mừng đều loan báo cùng một sứ điệp như thế để mời gọi ta nhận ra tình thương cứu độ của Thiên Chúa trong dòng lịch sử nhân loại cưng như nơi lịch sử mỗi cuộc đời rất riêng biệt của mỗi người.

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

SỐNG CÔNG CHÍNH

Ngày 18/12 (Mt 1, 18-24)


Vâng trọn thánh ý Chúa dù hoàn cảnh có éo le mấy đi nữa, đó mới là người công chính. Thỏa mãn chính mình, xem nhẹ thánh ý Chúa, lươn lẹo để đạt kết quả tốt, vô tình, con người đã lìa xa đường công chính. Mùa Vọng, mẫu gương thánh Giuse, nhắc nhở ta khao khát sự công chính bằng cách lắng nghe, tin tưởng và thực thi ý Chúa trong cuộc đời mình!

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

GIÁNG SINH LÀ LỄ CỦA SỰ TIN TƯỞNG VÀ NIỀM HY VỌNG



Trong bài nói chuyện với các tín hữu và du khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư 18-12-2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: Hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy tư về lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu, ngày lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng, vượt thắng sự bất ổn và bi quan. Lý do của niềm hy vọng là vì: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Thiên Chúa Cha thật là quảng đại.
Thiên Chúa đến ở với loài người, lựa chọn trái đất để cùng sống với con người và để con người nhận ra Ngài trong những niềm vui và khổ đau của cuộc đời. Vì thế trái đất không còn là “thung lũng nước mắt” nữa, mà là nơi chính Thiên Chúa đã cắm lều của Ngài, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người và liên đới với con người.
Thiên Chúa đã muốn chia sẻ điều kiện làm người của chúng ta đến độ trở thành một với chúng ta trong con người của Đức Giêsu, là người thật và là Thiên Chúa thật. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người không được thực hiện trong một thế giới lý tưởng, tình tứ, nhưng trong thế giới thực sự này, một thế giới bị ghi dấu bởi các chia rẽ, gian ác, nghèo túng, các chuyên quyền và chiến tranh. Ngài đã lựa chọn ở trong lịch sử của chúng ta với tất cả gánh nặng của các hạn hẹp và các thảm cảnh của nó. Khi làm như thế Ngài đã chứng minh cho thấy lòng xót thương và tình yêu của Ngài đối với con người. Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ngay cả trong khổ đau và khốn khó của lịch sử.
Đức Thánh Cha định nghĩa lễ Giáng Sinh như sau: Lễ Giáng Sinh biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Giê-su: một năng lực giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim.
Từ việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta có thể rút tỉa ra hai điều.

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2013

ƠN GỌI NGÔN SỨ


Ngày 23 Tháng 12 (Lc 1,57-66.80)

Trở thành ngôn sứ là ơn gọi đặc biệt được chính Thiên Chúa tuyển chọn. Thiên Chúa đã từng phán với ngôn sứ Giêrêmia : “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi ; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1, 4-5). Lời Chúa phán trên cũng thật đúng cho trường hợp của Gioan Tẩy Giả.
Sự ra đời của Gioan Tẩy Giả đã gây thắc mắc cho nhiều người. Ai nghe thấy cũng đều để tâm suy niệm và tự hỏi : “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào ?” (Lc 3,16). Ba mươi năm sau, trong khi thi hành sứ vụ, người Dothái hỏi chính Gioan : “Ông là ai ?”, “Ông nói gì về chính mình ?”. Gioan đã trả lời : “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1,23). Gioan tự nhận mình là tiếng hô đi trước để chuẩn bị cho Lời sẽ đến sau. Cuộc đời Gioan sẽ là hình ảnh tuyệt hảo cho người ngôn sứ.
Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi. Gioan đến không phải để nói về mình nhưng để giới thiệu Đấng Cứu Thế. Gioan thi hành sứ vụ ngôn sứ không chỉ bằng lời nói nhưng với trọn vẹn cuộc sống. Trước khi ra mắt dân Israel, ông đã trải qua ba mươi năm sống một mình trong hoang địa. Khi rao giảng, dân chúng đến với ông rất đông nhưng ông tự nhận mình chỉ là tiếng hô đến dọn đường cho Đấng mà ông không đáng cởi quai dép. Khi nhận ra Đức Giêsu, Gioan không ngần ngại giới thiệu cho hai môn đệ thân tín để rồi hai môn đệ cũng bỏ Gioan mà theo Đức Giêsu. Cuối cùng, Gioan lấy chính mạng sống của mình để bảo vệ sự thật. Đó là số phận dành cho những ai sống trọn vẹn vai trò ngôn sứ của mình. Thế nhưng, cũng chính Gioan là người được Chúa Giêsu tuyên dương khi nói : “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan” (Lc 7,28).

Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2013

TIỀN HÔ CỦA CHÚA



Ngày 19-12: Lc 1,5-25

Thiên sứ nói với ông Da-ca-ri-a: “Em (Gio-an) sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.”

Thiên Chúa chu đáo chuẩn bị cho con người một kế hoạch. Thiên Chúa đến viếng thăm con người, đó là một sự kiện trọng đại, là tin vui cho tất cả mọi người, tin vui khỏa lấp bao mong mỏi đợi chờ. Để chuẩn bị cho ngày trọng đại này, Thiên Chúa đã chọn gọi một ngôn sứ, vị Tiền Hô của Người, đến để chuẩn bị lòng dân, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch quay về nẻo chính đường ngay. Sự xuất hiện của Gio-an như dòng nước thỏa mãn cơn khát của bao thế hệ. Lời mời gọi của ông đã mang lại hiễu quả. Người người xếp hàng nối đuôi nhau để xin lãnh phép rửa tỏ lòng sám hối ăn năn. Tiếc rằng không phải ai ai cũng sẵn sàng để đón Chúa.
Thiên Chúa đã chuẩn bị chương trình của Người thật chu đáo, thế nhưng khi Người đến “gõ cửa” thì con người lại chưa sẵn sàng “mở”. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà lại từ chối. Đó là thái độ không phải của con người cách đây hơn hai ngàn năm mà thôi nhưng còn là thái độ thường trực của con người thời nay. Mùa Vọng đã đi hơn nữa chặng đường nhưng mấy ai trong chúng ta đã dọn lòng cẩn thận để đón Chúa? Đó đây các hang đá được dựng lên và trang hoàng lộng lẫy nhưng mấy ai chuẩn bị cho Chúa một chỗ trong lòng mình?
Thời gian càng ngắn ngủi thì lời thúc bách càng ý nghĩa. Những ngày con lại của mùa Vọng là cơ hội để chúng ta từ bỏ những ngỗ nghịch của mình mà quay về nẻo chính đường ngay. Đây không chỉ là bổn phận của mỗi người chúng ta với Chúa mà thôi nhưng còn là trách nhiệm đối với người khác. Cách sống của chúng ta có là “cơ hội” để người khác cũng nhìn ra chuẩn bị đón chờ Chúa đến.
Xin Chúa cho con luôn ý thức về cách sống của mình để con cũng trở thành một Tiền hô của Chúa, một người đi trước để dọn dường cho Chúa đến trong lòng mỗi người.

CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ



1. Sứ điệp thứ nhất mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy vào sa mạc.
Vào sa mạc là sống với thiên nhiên, sống hòa hợp với đất trời, bảo vệ cây cỏ, dã thú. Trong nền văn minh tiêu thụ hiện nay, người ta khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không nghĩ đến tái tạo. Trong bối cảnh ấy, sứ điệp của Thánh Gioan Tiền Hô có giá trị như một thức tỉnh con người trước sức tàn phá của nền văn minh tiêu thụ.
Vào sa mạc là tìm nơi yên tĩnh mà nghỉ ngơi. Sứ điệp của Thánh Gioan Tiền Hô vượt lên trên những nhu cầu của xã hội, của sức khỏe để nhắm vào đời sống tâm linh con người. Vào sa mạc tâm linh, tức là tạo cho mình một thời gian và một không gian yên tĩnh. Dứt lìa những bận bịu lo toan trong cuộc sống để trở về với mình, đối diện với lòng mình.
Sa mạc không có đường đi. Nên người đi vào sa mạc sẽ đi theo con đường Chúa chỉ dẫn. Như xưa dân Do Thái lang thang 40 năm trong sa mạc, không biết đường đi, chỉ biết đi theo áng mây cột lửa nên đã tìm thấy đường đi về với Chúa, đã gặp được Chúa, đã thành Dân của Chúa. Cũng vậy, người vào sa mạc tâm linh sẽ gặp mình và trong sâu thẳm lòng mình sẽ gặp được Chúa. Vì Chúa còn thân thiết với ta hơn chính bản thân ta. Vì Chúa còn sâu xa hơn chính nội tâm ta.

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

TÔI ĐÃ ĐƯỢC CỨU

Chúa nhật 4 mùa vọng năm A (Mt 1, 18-24)

Ngày 18 tháng 12
“Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21)
A-đam, E-và phạm tội và phải lãnh nhận hậu quả của tội. Thay vì chiều chiều đi dạo với Thiên Chúa, ông bà không còn dám đối diện với Người. Thay vì vui vẻ đón nhận người trợ tá tương xứng, A-đam đổ lỗi cho E-và. Từ đây, A-đam phải cày sâu cuốc bẩm mới có của nuôi thân, còn E-và thì phải chịu đau đớn khi sinh con.
Thời gian đi qua và biết bao thảm kịch đã xảy ra: Ca-in giết em, tháp Ba-bel sụp đổ, lụt hồng thuỷ, …. Cứ thế con người trượt dài trên con dốc tội luỵ như là hậu quả của tội nguyên tổ. Con người chỉ còn biết gục đầu ăn năn, hai tay hướng lên trời mong tìm được ơn giải thoát.
Thực vậy, tội luỵ quá nặng nề nhưng không ai trong dòng dõi loài người có thể tự cứu chuộc lấy mình cũng như cứu chuộc người khác. Chỉ có Đấng được hứa ban từ trời mới có thể thực hiện công cuộc này. Và hôm nay, tin Đấng Cứu Độ xuống thế đã được chính thức loan đi: Bà sẽ sinh một con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21).

Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

BẢN GIA PHẢ NÓI LÊN LÒNG TRUNG TÍN CỦA THIÊN CHÚA

Ngày 17/12: Mt 1,1-17
1 Đây là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham:
2 Ông Áp-ra-ham sinh I-xa-ác ; I-xa-ác sinh Gia-cóp ; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em ông này; …
16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
17 Như thế, tính chung lại thì : từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời ; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời ; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.
Ngay từ khởi đầu lịch sử con người, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Độ. Suốt dòng lịch sử nhân loại, Thiên Chúa vẫn âm thầm chu đáo chuẩn bị một con đường, con đường dẫn đến Đấng Cứu Thế. Dù cho trong dòng lịch sử đó, con người thường xuyên phản bội, nhưng Thiên Chúa vẫn trung tín với lời hứa của Người. Dù cho lịch sử có những khúc quanh, nhưng Thiên Chúa đã biến những khúc quanh đó thành những cột mốc quan trọng của lịch sử. Điều đó không chỉ cho thấy quyền năng của Người, nhưng trên hết là tình thương và lòng nhân từ. Vì yêu thương, Người sẵn sàng tha thứ và giúp con người chữa lành những “vết thương”.
Thánh sử Matthêu, khởi đầu bản gia phả với Apraham, tổ phụ của dân tộc Do Thái, trong khi thánh Luca trình bày gia pha theo chiều ngược lại, khởi đầu từ Đức Giê-su và kết thúc là nguyên tổ A-đam. Tuy có khác nhau về cách trình bày, nhưng cả hai đều cho thấy sự ưu ái của Thiên Chúa. Thiên Chúa như Người cha chuẩn bị kỹ lưỡng cho hành trình của những đứa con. Một cái tên xuất hiện trong gia phả là một tác động của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ con người.
Ngày hôm nay, chắc hẳn Thiên Chúa vẫn là đấng trung tín và yêu thương con người. Người vẫn đang vạch ra một con đường cho chúng ta. Con đường dẫn dắt chúng ta đến quê trời. Không chỉ vạch ra con đường mà thôi, Người còn dẫn dắt chúng ta bước đi với nhiều ơn lành. Chúng ta không đơn độc trong hành trình này, bởi chúng ta đang cùng đi cùng Giáo hội và trong Giáo hội. Giáo hội có đầy đủ các phương tiện để trợ giúp chúng ta. Hơn nữa, Chúa còn mời gọi mỗi người trong chúng ta góp phần vào chương trình của Chúa để dẫn dắt người khác đến gặp Đấng Cứu Độ, giống như các nhân vật trong bản gia phả đã dẫn dắt ta đến với Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Lạy Chúa, Đấng Cứu Độ đã được ban cho chúng con. Người đã đến trong thân phận một con người, đã sẻ chia những buồn vui nhân thế để cảm thông với chúng con. Xin cho chúng con được chuẩn bị xứng đáng đến đến gặp Người.

Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ

Ngày 14 tháng 12

Thánh Gioan Thánh Giá được tôn xưng là nhà thần bí lớn trong Giáo Hội. Khi còn sống, những tư tưởng về đời sống tâm linh đã được đúc kết bằng những khổ đau trong chính cuộc đời mình.
Cha ngài thuộc dòng dõi quí tộc, nhưng bị khai trừ vì cưới một thường dân làm vợ. Ông qua đời lúc ngài vừa sinh được vài tháng nên gia đình phải sống trong cảnh nghèo túng. Tuy vậy Gioan cũng đã được học hành đàng hoàng nhờ vừa đi làm vừa tự học. Đến năm 21 tuổi, ngài gia nhập Dòng Carmêlô.
Dòng Carmêlô ở Tây Ban Nha được ngưởng mộ vì thực hành một đời sống tâm linh sâu sắc, nghiêm túc giữ luật dòng và đời sống cầu nguyện. Nhưng vào thời kỳ của Gioan thì kỷ luật bị buông lỏng và tinh thần đạo đức sa sút. Gioan chịu chức linh mục năm 1567 và được giới thiệu với thánh Têrêxa Avila, đấng đang lãnh đạo phong trào cải tổ sâu rộng dòng Carmêlô.
Cả hai trở nên thân thiết vì có chung một chí hướng. Tinh thần cải tổ rất nguy hiểm trong thời kỳ có Pháp đình Tôn giáo, Cơ quan này sẵn sàng kết án những ai có tư tưởng không theo rập khuôn mẫu tôn giáo đã được ấn định vào thời bây giờ. Thánh Gioan là nạn nhân của anh em trong dòng. Vào năm 1577, thánh Gioan bị bắt cóc đem nhốt vào một phòng giam trong tu viện ở Toledo. Sau chín tháng bị giam cầm, Gioan đã trốn thoát được ra ngoài trong đêm tối.
Sau một thời gian, thánh Gioan được anh em mời trở về dòng nhưng những đau khổ vẫn mãi dồn dập. Gioan vẫn viết lên những lời thơ thần bí để lại cho hậu thế ngưỡng mộ. Gioan chết vào ngày 12 tháng 12 năm 1591 trong cô đơn sau một thời gian bị bệnh lâu dài.
Sự đau khổ đã nung nấu ý chí và tạo nên đời sống tâm linh huyền bí. Tác phẩm lớn là “Đêm tối tăm của linh hồn” được sáng tác với kinh nghiệm lúc bị giam ở Toledo. Gioan tả linh hồn như một người đang yêu trốn ra trong đêm tối đến hẹn hò với Nhân Tình. Đau khổ làm cho linh hồn tinh khiết như cây củi được đốt trong lò sưởi, lửa cháy làm tan nát và thiêu hủy cây củi nhưng tạo được ngọn lửa hồng trong sáng.
 Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Gioan linh mục lòng nhiệt thành yêu mến thánh giá và hoàn toàn từ bỏ chính mình. Xin cho chúng con hằng biết noi gương sáng của người để mai sau được chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển (Lời nguyện nhập lễ thánh Gioan thánh giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh ).
Tóm lược theo Phó Tế J.B. Huỳnh Mai Trác


Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

NGÀY 13: KÍNH THÁNH NỮ LUCIA

Ngày 13 tháng 12 là Lễ kính Thánh Nữ Lucia, trinh nữ tử đạo, năm 304. Bạn biết gì về vị Thánh này ? Tại sao gương của Thánh nữ lại quan trọng ? Đây là vài lý do:
Thứ nhất, có biểu tượng về tên của bà. Chữ Lucia có gốc từ tiếng Latin, nghĩa là ánh sáng – “Lux” hoặc “Lucis”. Lucia là vị Thánh của Ánh Sáng trong Mùa Vọng, Mùa Ánh Sáng. Ánh Sáng Mùa Vọng xuất hiện trong thời gian tối tăm trong năm. Với công việc tốt lành, sự trong sạch và tình yêu dành cho người nghèo, Thánh Lucia đã tỏa sáng ánh sáng thật của Sự Sống.
Thứ nhì, Thánh Lucia đối lập với Luxiphe. Luxiphe vốn là thiên thần, là “người mang ánh sáng” nhưng đã rơi vào thung lũng bóng tối. Luxiphe là ánh sáng sai lầm, còn Thánh Lucia phản chiếu ánh sáng thật của Ngôi Lời, Ánh Sáng Đức Kitô trong thế giới tối tăm và trụy lạc. Thánh Phaolô nói rằng các Thánh chiếu sáng như những vì sao trong đêm tối. Luxiphe được gọi là “Sao Mai Sáng” nhưng ánh sáng đó đã trở thành bóng tối khi ánh sáng chói lói của các Thánh chiếu tỏa.
Thứ ba, Thánh Lucia là vị Thánh của Ánh Sáng nhưng bà cũng “bị mất ánh sáng”, tức là bị mù. Tại sao ? Hồi đó, Lucia là cô gái xinh đẹp, có một anh chàng ngoại giáo nói yêu đôi mắt đẹp của Lucia, thế là Thánh nữ móc mắt mình cho người đó vì muốn giữ mình trọn đời đồng trinh vì Nước Trời. Do đó, Thánh Lucia là bổn mạng của những người khiếm thị. Thánh Lucia nhắc nhở chúng ta phải luôn cố gắng bước đi trên “con đường ánh sáng”, nghĩa là Thánh Lucia đã trao ánh sáng cho chúng ta !
Thứ tư, Thánh Lucia từ chối kết hôn với người ngoại giáo. Thời đó, ngoại giáo bị coi là tà giáo. Người ngoại giáo đó có quyền hành, chức tước, địa vị, của cải... Làm vợ người đó thì tương lai tươi sáng và rộng mở, nhưng Thánh Lucia vẫn nhất quyết từ chối. Đó là điều không dễ đối với một cô gái đẹp còn trẻ, vì sự cám dỗ về vật chất rất mạnh mẽ.
Thật xứng đáng để chúng ta yêu mến Thánh Lucia, vì bà đã không chịu thỏa hiệp. Thánh Lucia là một thiếu nữ nhưng sống như một anh hùng, một chiến binh can đảm vì Đức Kitô. Thánh Lucia nhắc chúng ta rằng nếu chúng ta không cương quyết thì chúng ta sẽ không được vào Nước Trời.
Lạy Thánh Nữ Lucia, xin nguyện giúp cầu thay. Amen.
TRẦM THIÊN THU, chuyển ngữ từ Patheos.com


Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

MÙA VỌNG LÀ GÌ?



Trong tiếng Việt, vọng có nghĩa là “mong chờ”. Như vậy, mùa Vọng được hiểu là mùa mong chờ Chúa đến. Tuy nhiên, trong tiếng La tinh, mùa Vọng là Adventus có nghĩa là “đến”. Như vậy đây là mùa Chúa đến. Việc Chúa đến được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất nhắc lại biến cố Chúa Nhập thể cách đây hơn 2000 năm, nghĩa thứ hai được hiểu là việc Chúa đến trong thời cánh chung.
Với hai ý nghĩa này, các bài đọc Sách Thánh trong các Chúa nhật mùa Vọng được chọn để làm nổi bật cả hai chủ đề này. Các bài đọc của Chúa nhật thứ nhất đề cập đến việc Chúa đến trong biến cố quang lâm và mời gọi mọi người chuẩn bị sẵn sàng cho biến cố đó. Các bài đọc của các Chúa nhật còn lại giới thiệu mẫu gương của những người sẵn sàng đón chờ Chúa Cứu Thế như Gio-an Tẩy Giả (Chúa nhật thứ 2 và 3) hay Đức Ma-ri-a (Chúa nhật thứ 4).
Cũng vậy, mùa Vọng được chia làm hai phần với móc phân chia là ngày 17/12. Phần thứ hai, từ là một tuần trước áp lễ Giáng Sinh, các bài đọc thường trích từ “Tin Mừng thời niên thiếu” hoặc là đề cập trực tiếp đến biến cố truyền tin. Điều đó cho thấy phụng vụ trong thời gian này được chọn lựa với mục tiêu chuẩn bị cho lễ giáng sinh đã gần kề.
Như vậy, mùa Vọng (Adventus) là mùa hướng lòng về ngày Chúa Kitô sẽ lại đến trong vinh quang để xét xử thế giới và con người, nhưng gần hơn cả là chuẩn bị tâm hồn và đời sống để mừng mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh. Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta nhìn lên Chúa, Đấng đang đến với chúng ta mỗi giây phút và một cách đặc biệt khi ‘Người sẽ lại đến trong vinh quang’.
Tài liệu tham khảo
Phan tấn Thành, O.P. Hiểu để sống đức tin, tập 1

TÍN ĐIỀU VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI



Dẫn nhập
Nếu như hai tín điều đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và Trọn Đời Đồng Trinh được Giáo hội tuyên xưng từ rất sớm (vào thế kỷ thứ IV), thì hai tín điều Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội và hồn xác lên trời mới được Giáo hội tuyên xưng vào thế kỷ XIX và XX. Điều đó không có nghĩa là hai tín điều này mới được mạc khải nhưng vì Giáo hội cần một thời gian suy tư dưới sự soi sáng của Chúa Thánh thần mới có thể hiểu nội dung súc tích của các tín điều này.
Lịch sử hình thành tín điều[1]
Ngay từ thời các giáo phụ, người ta đã ghi nhận sự thánh thiện của đức Maria nhưng không mấy ai đặt vần đề đức Maria thánh thiện (được khỏi tội) từ lúc nào. Thánh Anselmô là người khởi đầu cho những cuộc khảo luận thần học về đức Maria vô nhiễm. Ngài nêu lên vấn nạn: nếu đức Maria được sạch tội ngay từ lúc thụ thai thì hóa ra người không cần đến ơn cứu chuộc hay sao? Và rồi ngài trả lời rằng đức Maria được hoàn toàn cứu chuộc ngay từ trước khi sinh ra. Tuy nhiên không phải tất cả các nhà thần học đều đồng ý với lập luận ấy vì những vấn nạn về ơn cứu chuộc. Gulielmô de Ware và Gioan Scôtô giải quyết vấn nạn bằng cách phân biệt giữa ơn thánh “rào đón” và ơn thánh “chữa trị”. Cả hai đều là hiệu quả ơn cứu chuộc của Đức Kitô nhưng đức Maria được ơn “dự phòng”, nghĩa là người được giữ gìn khỏi tội vì nhắm thấy trước những công nghiệp của đức Kitô. Vào năm 1661, đức Giáo hoàng Alexandrô VII cho rằng đạo lý đã có tính cách phổ quát và cấm nói ngược lại. Vào năm 1849 sau khi tham khảo ý kiến của tất cả các Giám mục hoàn cầu, tín điều đức Mẹ vô nhiễm đã được công bố ngày 8/12/1854.[2]

Thứ Hai, 2 tháng 12, 2013

LỜI MỜI GỌI TRUYỀN GIÁO (1Cr 9,16-19.22-23)

Ngày 03: Thánh Phanxicô Xaviê

Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng !
Thánh nhân sinh năm 1506 trong một gia đình quyền quý thuộc miền Bắc nước Tây ban Nha ngày nay. Năm 19 tuổi, Ngài đến Paris học. Tại Paris Ngài sống trong cùng một căn phòng với Thánh I Nhã. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của Thánh I Nhã khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi ngài chịu chức linh mục tại Venezia miền Bắc nước Ý (1537). Năm 35 tuổi ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III. Những vùng đất đã in đậm dấu chân ngài là Ấn Độ, Malaisia, Inđônêsia và Nhật Bản. Ngài ước mong vào Trung Hoa truyền đạo nhưng không được mãn nguyện bởi ngài đã chết trên đường đến đó vào ngày 03/12/1552. Ngài được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh I Nhã vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Thánh Phanxicô Xaviê là vị truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời mới. Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến ; ngài sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.[1]
Truyền giáo là lời mời gọi dành cho hết mọi tín hữu. Mỗi người đều có thể thực hiện tùy theo địa vị và hoàn cảnh của mình. Ngày nay, Giáo hội đang mời gọi các Ki-tô hữu “tân phúc âm hóa” đời sống, khởi đi từ chính bản thân, gia đình giáo xứ và xã hội. Như vậy, truyền giáo ngày nay không nhất thiết đòi hỏi chúng ta phải bước chân ra đi đến các vùng xa xôi, việc đó dĩ nhiên vẫn rất cần thiết nhưng chỉ phù hợp cho những ai có đặc sủng riêng biệt. Còn nhiệm vụ thiết thực của mỗi người là truyền giáo ngay nơi mình đang sống, là thánh hóa bản thân và từ đó giúp thánh hóa môi trường xung quanh. Truyền giáo ngày nay là giúp mọi người, kể cả các tín hữu, tái khám phá sự hiện diện sống động của Đức Giê-su trong cuộc đời mình, là làm mới lại Tin Mừng được rao giảng và lắng nghe.
Hơn nữa, chúng ta cũng có thể cộng tác vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng nhiều cách thức khác nhau. Đó có thể là những lời cầu nguyện hàng ngày, cũng có thể là những hy sinh nhỏ bé dâng lên Thiên Chúa để cầu nguyện cho những bước chân truyền giáo. Đó cũng có thể là những đóng góp cụ thể bằng vật chất cho những vùng sâu vùng xa, những nơi đang cần sự nâng đỡ của những tấm lòng bác ái. Những công việc tưởng chừng nhỏ nhặt đó sẽ đem lại những lợi ích lớn lao nếu ta thực hiện với tất cả lòng yêu mến.
Ước gì lệnh truyền của Đức Giê-su (Mc 16,15-20) trước khi về trời cũng như lời bày tỏ của thánh Phaolô luôn vang vọng trong tim mỗi người. Ước gì mỗi tín hữu là một chứng nhân truyền giáo thì gương mặt và giáo lý của Đức Giê-su sẽ nhanh chóng được mọi người nhận biết và áp dụng vào cuộc sống.



[1] Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh.

Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

Mầu nhiệm Giáng sinh nhắc nhở tôi

Ngày xưa, Người đã đến nhà mình
Người đến nhà mình trong thân hình một trẻ thơ yếu ớt. Có gì đáng kể đâu ! chỉ là một hài nhi đỏ hỏn cất tiếng khóc oe oe. Một trẻ thơ vùng vằng trong tay mẹ rồi năm im nuốt từng dòng sửa ấm. Một trẻ thơ nhắm nghiền đôi mắt đi vào giấc ngủ bình an. Đáng kể gì đâu một hình ảnh nghèo nàn, dung dị. Thiên hạ vẫn khép cửa. Họ sưởi ấm bằng những toan tính riêng của mình. Mặc kệ ngoài kia một hài nhi lạnh lẽo.
Người đến nhà mình trong dáng dấp một anh thợ. Có gì đặc biệt đâu một anh thợ nơi làng quê ! Phải chi anh là tư tế, là vương tôn hay một danh phận quí tộc nào đó. Nhưng không. Anh là một người thợ chính danh. Anh sống hòa đồng với bạn bè làng xóm. Những cuộc vui, những buổi họp mặt, những lần gặp gỡ nơi hội đường anh luôn có mặt, đồng hành và chia sẻ. Anh là người bạn gần gũi thân thiết với những người trẻ đang lo toan kiếm sống.
Người đến nhà mình trong thân phận một chàng trai say sưa hát bài du ca tình yêu. Bài ca anh hát dành cho tất cả mọi người nhưng anh đặc biệt gửi tặng cho người nghèo. Họ là những người bệnh hoạn tật nguyền, những người bị xã hội loại bỏ như : phụ nữ, trẻ em, thu thuế. Bài tình ca này anh đã say sưa hát từ miền biển lên sườn đồi đỉnh núi ; từ đồng cỏ xanh tươi qua bờ giếng ven làng đến phố xá thành thị. Tuyệt đỉnh của bài ca được kết tinh trên thập giá nhằm mang lại sự sống cho muôn người.
Thế nhưng ...Người nhà chẳng chịu đón nhận
Người nhà đã mòn mỏi mong chờ. Sự mòn mỏi khiến đôi mắt mệt lừ và khô khốc. Nó không còn tinh nhạy. Nó thờ ơ và vô cảm trước những cảnh đời đáng thương. Nó lãnh đạm trước tình cảnh đôi vợ chồng xa quê và như thế vô tình khước từ Đấng Cứu Thế.
Người nhà chê anh thợ vì cho rằng anh chẳng hơn gì họ. Vô tình họ chống lại Đấng Cứu Tinh.
Người nhà khó chịu trước lối sống nhập thế của anh chàng say đắm hát bài tình ca. Họ quyết đưa chàng đến chỗ chết, và như vậy họ đã cố tình loại bỏ Thiên Chúa.
Người đã đến nhà mình. Mặc dù người nhà chẳng chịu đón nhận nhưng người vẫn sống và say mê lý tưởng đến cùng. Người đã đến ném lửa vào trần gian. Qua dòng thời gian, ngọn lửa có lúc bừng sáng, có lúc lu mờ. Và ngày hôm nay, Người lại đến, “đứng trước cửa và gõ” (Kh 3, 20). Người mời gọi ta khơi bùng ngọn lửa dấn thân.
Ngày nay, Người đứng trước cửa và gõ
Mừng mầu nhiệm nhập thể là dịp nhắc nhở ta rằng Người đã đến, đứng trước cửa và gõ. Không phải ta chờ đợi Người nhưng chính Người đang chờ đợi ta. Người để ta tự do đón nhận hay từ chối.
Người đứng trước cửa và gõ. Tuy nhiên danh phận của Người ta chưa biết được. Có thể trong tư cách của vị hoàng tử, hay dưới lớp áo của kẻ hành khất ; có thể một phụ nữ lỡ bước sa chân hay một trẻ thơ tiều tụy kiệt sức ; cũng có thể là một công nhân, nông dân hay một nghệ sĩ lãng mạn nào đó ; có thể là một con bệnh, một phạm nhân hay một thương nhân giàu có. Tất cả đều có thể là hình ảnh, là hiện thân của Ngôi Lời nhập thể. Và như vậy đòi hỏi tôi phải nhạy cảm để lắng nghe và tiếp đón.
Ai nghe và mở cửa Ta sẽ vào nhà
Con người ngày nay bị vây bọc bởi nhiều tiếng ồn : có tiếng ồn vật lý do con người hay thiên nhiên và cũng có tiếng ồn tâm lý do những lo toan, tính toán. Vì tinh thần luôn bận rộn và bất ổn nên con người khó lặng thinh nghe tiếng Chúa. Để nghe tiếng gõ cửa trước hết ta phải khao khát, ước muốn và mong đợi. Chỉ khi tôi sẳn sàng mở cửa tâm hồn lập tức Người sẽ ngự vào. Như vậy, hôm nay mừng mầu nhiệm Giáng sinh là mừng ngày tôi mở cửa tâm hồn ra để Ngôi Lời nhập thể vào, để trái tim tôi cùng chung nhịp đập với trái tim Người, để Người ở lại trong tôi và tôi ở lại trong Người (x. Ga 15,4). Để sau khi có Người tôi sẽ cùng Người ra đi, gõ cửa tâm hồn thế gian.
Phải chi lửa ấy đã bùng lên
Qua mầu nhiệm Nhập thể, Đức Giêsu đã châm ngòi ngọn lửa tình yêu. Hội thánh ngày nay có sứ vụ thổi bùng ngọn lửa đó bằng lối sống nhập thế của mình. Giêsu đã dành bản tình ca đặc biệt cho người nghèo. Ngày nay, phần đông những người nghèo trên thế giới, đặc biệt ở Á châu và Phi châu, vẫn chưa cảm được bàn tình ca này. Ngọn lửa tình yêu vẫn chưa chạm tới họ. Vẫn còn quá ít những nhân vật nhấp thế như mẹ Têrêxa Calcutta, Giám mục Jean Cassaigne Sanh, linh mục Vinh sơn Phaolo hay Charles de Foucauld. Giáo hội ngày nay cần lắm những chứng nhân, những người giữ lửa và truyền lửa. Cần lắm những người dấn thân đem Tin mừng cho người nghèo.
Lạy Chúa, xin cho con có tinh thần dấn thân để cùng Chúa con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian.