Lớp
Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”,
Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García
Paredes, CMF.
Hành
trình “tâm linh” mà chúng ta phải
theo đuổi được trải bằng những chướng ngại vật. Khi một số ở bên trong còn một
số lại ở bên ngoài. Mỗi chúng ta đều mang thân phận tội lỗi vốn tự nhiên khiến
mình trở thành một kẻ đồng lõa của sự dữ. Chúng ta có thể nói, theo lời diễn
giải của Phaolô, “Lề Luật là bởi Thần
Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt” (x. Rm 7, 14). Thế gian, xác
thịt và ma quỷ (x. 1Ga 2, 14-16) bắt
gặp trong chính bản thân chúng ta, một sự đồng lõa ngầm. Và ngay cả khi tội
đồng lõa nội tại này bị loại bỏ, thì chúng ta vẫn mở cho những xúi giục, níu
kéo và xu nịnh bên ngoài xui khiến chúng ta tạo ra khoảng trống cho điều xấu xa
vào đời ta. “Ai sẽ giải thoát tôi khỏi
thân xác phải chết này ?” (Rm 7, 24). Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu xin
Chúa Cha “giải thoát chúng ta khỏi sự dữ”.
Chúng
ta nên chiêm niệm sự cám dỗ dưới viễn cảnh : Đức Kitô vẫn đang bị thử thách trong chính chúng ta.
Chúa Giêsu, Con Một và Đấng Thiên Sai của Chúa Cha, được
Chúa Thánh Thần dẫn dắt vào hoang địa chịu cám dỗ. Người không chỉ mang lấy “thân xác tội lỗi” (Rm 8, 3) của chúng
ta, nhưng đã cảm nhận chính Người trong cuộc đối thoại và sự xúi giục của tội,
đòi Người trở nên kẻ đồng lõa (x. Mt 4,
1). Chúa Giêsu có thể hiểu và cảm thông với những yếu hèn của chúng ta, vì
Người “đã chịu thử thách về mọi phương
diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt
4, 15) và “Vì bản thân Người đã trải
qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt
2, 18).
Tin
Mừng Nhất Lãm đã miêu tả hình ảnh Chúa Giêsu trong sa mạc – giống dân Thiên
Chúa trong cuộc Xuất hành – chịu ma quỷ cám dỗ và vượt thắng chúng. Theo các
tác giả, Chúa Giêsu được Thánh Thần dẫn dắt vào hoang địa và chịu thử thách ở
đó về lòng trung thành của Người cho điều răn tiên quyết và trọng nhất. Cám dỗ
đầu tiên cho chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu yêu Chúa Cha bằng cả tâm hồn (con người). Khi dân Israel chịu thử
thách bởi nạn đói trong sa mạc, được thuật lại như sau :
Anh em phải nhớ
lại tất cả con đường mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt
bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực ; như vậy Người thử
thách anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người
hay không. Người đã bắt anh em phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn
man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết,
ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh,
nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng ĐỨC CHÚA phán ra (Đnl 8, 2-3).
Chúa Giêsu đã chỉ cho ma quỷ thấy rằng Lời của Chúa Cha
được khắc cốt ghi tâm trong Người ; trong trái tím của Người là một tình yêu vĩ
đại đến độ nó vượt trên mọi sự. Ở đợt cám dỗ thứ hai, Chúa Giêsu chịu thử thách
bằng việc yêu mến Thiên Chúa bằng cả linh hồn mình (cuộc sống) : đối diện nguy cơ là cái chết mà được Tin Mừng Nước
trời của Người đòi buộc, Chúa Giêsu đã không xin một dấu chỉ ; Người không thử
thách Giavê như dân Israel đã làm trong hoàn cảnh tương tự[1]. Ở đợt cám
dỗ thứ ba, Chúa Giêsu cho thấy rằng Người yêu Thiên Chúa hết cả sức lực (nguồn), và rằng Người yêu mến và tùng
phục chỉ một mình Chúa Cha ; Người sẽ không tùng phục tiền của. Hơn nữa, từ một
quan điểm khác, Thư Do thái 5, 7 giải thích lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong
vườn Ghết-sê-ma-ni như một lời nguyện được thốt ra trong khoảnh khắc của cơn
cám dỗ.
Hiện
trạng cuộc sống của các tông đồ luôn phải đối diện với nhiều cám dỗ. Vì lý do
này, Chúa Giêsu đã dạy các ông phải cầu nguyện hầu Chúa Cha không để họ sa
chước cám dỗ, cụ thể là, “khẩn cầu Thiên
Chúa để Người nâng đỡ các ông và Người sẽ bảo vệ các ông thoát khỏi những cám
dỗ, mà quyền lực kẻ thù sẽ bóc trần chúng… theo lời dạy của Chúa Giêsu, ngươi
phải nhớ rằng rằng bất kì khó khăn hay nguy hiểm nào và bất kỳ cám dỗ nào cũng
đều diễn tả một cơn cám dỗ khổ đau tột cùng”[2].
Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Chúa Giêsu cũng dạy ba tông đồ dấu yêu của mình hãy
cảnh giác và cầu nguyền để có thể chống lại cám dỗ : “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần
thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14, 38). Chúng ta phải luôn
phải tỉnh thức và cầu nguyện, để khi cơn cám dỗ đến, chúng ta mới có thể vượt
thắng được.
Người tu sĩ chúng ta cũng phải chịu thử thách nhiều lần.
Thật quan trọng để nhấn mạnh rằng những cám dỗ không chỉ còn nhắm vào những cám
dỗ chống lại sự khiết tịnh. Nó vượt hẳn khỏi điều này. Trong ngữ cảnh Tin Mừng
chúng ta vừa nói đến, không có sự chú ý đặc biệt nào dành cho kiểu mẫu của
những cám dỗ này. Điều này không có ý cho rằng những cơn cám dỗ như thế không
quan trọng hoặc chúng không thể gây ra những hậu quả nguy hại. Hiểu một cách
đơn giản là Hội thánh đã quá nhấn mạnh đến những cám dỗ về bản năng tính dục
đến nỗi quên đi những cám dỗ khác có thể dễ dàng làm chúng ta sa ngã hay cản
trở ơn gọi và tác vụ của chúng ta cách trầm trọng.
Có những cám dỗ ảnh hưởng đến đời sống tâm linh, như một
kiểu mẫu của đời sống hướng đến việc theo Đức Giêsu Kitô cách viên mãn, chúng
là những cám dỗ chống lại sự khó nghèo và vâng phục, chống lại sự phục vụ tha
nhân vô điều kiện, chống lại tinh thần nhiệt thành tông đồ, chống lại tình bác
ái bên trong và bên ngoài cộng đoàn, chống lại sự chọn lựa phục vụ cho người
nghèo và công bình. Có những cám dỗ của kiêu ngạo, của giận dữ, của hám lợi,
của lười biếng, của dục tính, và của ghen tương. Có một vài giai đoạn nhất định
trong đời là thời kì của cám dỗ, thử luyện đặc biệt cho người tu sĩ – những
khoảnh khắc này đòi chúng ta phải điều chỉnh lại con người mình. Những bậc thầy
về đời sống tâm linh chỉ ra cho chúng ta thấy những tình trạng đó gọi là dấu
hiệu của “những đêm đen”, thật cần thiết
cho chúng ta để duy trì sự thinh lặng và phải cậy trông vào lời cầu nguyện và
sự thanh luyện.
Việc tin rằng Đức Kitô đang chịu thử thách trong chúng ta
cũng sẽ giúp chúng ta hiểu ra rằng Người khao khát vượt qua sự xấu xa trong
chúng ta và cùng với chúng ta. Ân sủng của Người sẽ không bao giờ để chúng ta
sa ngã, một khi chúng ta có sự tín thác sắt đá vào Người. Hiệp nhất với Đức
Kitô, được nuôi dưỡng qua việc lắng nghe Lời Chúa và cử hành các Bí Tích, trong
tình yêu và việc phục vụ anh chị em một cách vô vị lợi, sẽ gia tăng sức mạnh
cho chúng ta nhờ sự bao bọc, chở che của Thiên Chúa hầu chống lại ma quỷ. Những
lời khuyên nhủ trong Sách Khôn Ngoan mang đến một ý nghĩa mới :
“Con ơi, nếu
con muốn dấn thân phụng sự Đức Chúa, thì con hãy chuẩn bị tâm hồn để đón chịu
thử thách. Hãy giữ lòng cho ngay thẳng và cứ kiên trì, đừng bấn loạn khi con
gặp khốn khổ. Hãy bám lấy Người chứ đừng lìa bỏ, để cuối đời, con được cất nhắc
lên. Mọi chuyện xảy đến cho con, con hãy chấp nhận, và trải qua bao thăng trầm,
con hãy cứ kiên nhẫn. Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người
sáng giá thì phải được thử trong lò ô nhục. Hãy tin vào Người, thì Người sẽ
nâng đỡ con… Khốn thay quả tim nao núng vì không tin tưởng : chính vì vậy nó
không được chở che” (Hc 2, 1-6, 13).
Cuối
cùng, chúng ta muốn nói đến phương pháp tập luyện từ những hy sinh từ bỏ nho
nhỏ, nhằm chuẩn bị và trang bị cho đến lúc dám đón nhận những hy sinh từ bỏ lớn
hơn. Hy sinh là một biểu hiện, biểu trưng cho việc cắt đứt liên hệ với thứ gì
đó hay với ai đó, để chúng ta bày tỏ mối tương quan thân thiết với tha nhân và
với Thiên Chúa.
Những
hy sinh đúng đắn là những hy sinh mà mục đích chính của chúng phải giúp chúng
ta đến được với tình bằng hữu cao quý trong sự tự do hoàn toàn. Điều này chỉ có
thể đạt được ở chân trời vô tận của Thiên Chúa, nơi mà chúng ta mới có thể thỏa
cơn khát khi luôn là chính mình, nơi mà những giá trị phục hồi toàn bộ ý nghĩa
và định hướng căn bản của chúng. Một giá trị chóng tàn, mau qua không đáng gọi
là sự dấn thân hoàn toàn, sự dấn thân được hiểu là việc từ bỏ tất cả những thứ
khác.
Nhưng
sự dấn thân có liên quan đến những giá trị mà chúng ta gặp phải lại là phương
pháp tập luyện tốt cho việc đạt đến sự dấn thân mang giá trị tuyệt đối ; và sự
dấn thân này đòi hỏi những hy sinh từ bỏ nhỏ. Những hy sinh từ bỏ nhỏ của sự
hiệp nhất này đưa chúng ta đến sự hy sinh từ bỏ to lớn. Ai muốn hiệp nhất với
bản tính phải chấp nhận những từ bỏ (khổ
hạnh, mức độ cô đơn, chịu đựng, kiên nhẫn) ; và ai muốn hiệp nhất với những
người bạn cùng lý tưởng phải sẵn sàng từ bỏ lối sống vị kỷ của mình; và để hiệp
nhất với Chúa Giêsu Kitô, người đó phải sẵn sàng “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình và theo Người”.
Phương pháp tập luyện sự từ bỏ thật cần thiết để đạt đến
sự hiệp nhất và vượt thắng những cản trở của cám dỗ. Nhưng chúng ta phải hiểu
hay nắm bắt được một phần nào của phương pháp tập luyện đó trong ánh sáng của
những giá trị chinh phục. Từ bỏ vì lợi ích của một giá trị ! Từ bỏ vì những giá
trị tương đối, thấp hơn, có thể giúp ta thực hiện từ bỏ những thứ lớn hơn để
đạt được những giá trị tuyệt đối. Ai không thể từ bỏ trong những việc nhỏ, sẽ
không thể từ bỏ trong những việc lớn.
Hiệp
nhất với Thiên Chúa chính là thứ “cao quý
nhất”, vì thế không thể thiếu việc từ bỏ – và cũng không thể thiếu việc hy
sinh từ bỏ tất cả, không gì có thể can thiệp vào mức độ bình đẳng giữa Thiên
Chúa và chúng ta. Khi Chúa Giêsu từ bỏ mọi sự trên cây thánh giá và vượt thắng
cám dỗ xuống khỏi thánh giá, thì Người đã mang sự viên mãn này bằng việc hiệp
nhất con cái của Người với Chúa Cha và quy tụ tất cả con cái Thiên Chúa bị phân
tán trong tình huynh đệ cao quý. Bằng sự từ bỏ chân thành, sự từ bỏ mà chúng ta
thực hiện và những giá trị mà chúng ta từ khước sao có thể sánh được với ân
sủng và giá trị mà chính chúng ta cam kết dấn thân.
Đời tu sẽ không xứng danh nếu thiếu đi sự hy sinh từ bỏ.
Một chương trình sống mà không có chỗ cho phương pháp luyện tập những hy sinh
từ bỏ nhỏ bé sẽ chỉ là kết quả của một đời sống tầm thường, có khuynh hướng đổ
vỡ ngay khi đối diện sự cám dỗ và thử thách cho dù là nhẹ nhất. Trường hợp đáng
thương nhất là điều mà tất cả chúng ta thường hay từ bỏ những gì “thực sự đáng giá” vì những lợi lộc hào
nhoáng hay những cảm giác, ấn tượng hay khoảnh khắc của những cám dỗ (những phản bội của tình bạn, từ chối những
gì Thiên Chúa kêu mời chúng ta, giảm bớt nhiệt tình trong cầu nguyện, ghét bỏ,
xa lánh cộng đoàn hay sứ vụ).
Trong những trường hợp như vậy, những giá trị cao quý bắt
đầu đánh mất đi tiếng nói trong cuộc đời chúng ta ; một khi không còn nghe thấy
chúng, chúng ta sẽ trở thành “những kẻ hy
sinh từ bỏ cho các ngẫu tượng”. Việc khôi phục lại trước tình trạng sùng
bái ngẫu tượng này không thể không làm được ; nhưng nó rất nặng nề, khó khăn ;
những nỗi đau sẽ kéo dài rất lâu. Phương pháp luyện tập từ bỏ không phải là coi
thường những giá trị của thế giới (contemptus
mundi) ; đúng hơn, đó là một sự quý trọng trong một phạm vi đúng đắn và một
sự chuẩn bị cho việc đón nhận những giá trị cao quý, không thể có chuyện đầu
hàng những cám dỗ sùng bái ngẫu tượng.
Người
tu sĩ cảm nhận sự yếu đuối và nhận ra mình bị cám dỗ phải cầu nguyện cách tín
thác rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình trong khi gặp thử thách. Trong cuộc thử thách
này, Thiên Chúa muốn mặc khải vinh quang Người. Đời sống khổ hạnh tỉnh thức của
người tu sĩ phải là sự tự do đón nhận và nhận thức rằng sứ vụ người tu sĩ đã
lãnh nhận là hồng ân vô giá được đựng trong một bình sành dễ vỡ. Thế nên, người
tu sĩ cầu xin cho ý Cha được thể hiện và xin cho mọi người và vạn vật có thể
tiến vào Nước trời.
[1]
Những lời
mà Chúa Giêsu nói với con Quỷ : “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa
của ngươi”. (Mt
4, 7) cũng giống như việc cứng đầu và nghi ngờ của dân Is-ra-el muốn thách
thức Thiên Chúa : Anh em đừng thách thức ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em,
như anh em đã thách thức ở Ma-xa. (Đnl 6, 16).
[2] H. Seesemann, art. “Peira”, in GLNTIX, pp. 1436-1437.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét