Từ thời các Tông đồ,
Tin mừng đã được loan báo cách rộng rãi và nhiều cộng đoàn Giáo hội đã được thiết
lập ở các thành phố vùng Tiểu Á và Châu Âu. Đến thời các Giáo phụ Tông đồ, tức
là những người đã trực tiếp nghe các Tông đồ hay các môn đệ của các Tông đồ,
Giáo hội đã lan rộng khắp nơi. Do đó vấn đề đặt ra với các ngài là bảo vệ tính
truyền thống của Giáo hội. Chính vì thế Giáo hội trở thành mối quan tâm của các
ngài qua các thư từ cũng như những tác phẩm khác mà chúng ta có được.
Các Giáo phụ Tồng đồ
đề cập nhiều đến Giáo hội là Clêmentê thành Rôma, Ignatiô thành Antiôkia và
Hermas. Ở đây ta có thể nói đến ba mối quan tâm của các ngài là đặc tính, tổ chức
và đời sống của Giáo hội.
1.
Đặc tính của Giáo hội
Đặc
tính công giáo: Ignatiô
là người đầu tiên gọi tập thể các Kitô hữu là “Giáo hội công giáo”. Trong thư gửi
cho giáo đoàn ở Smyrna, Ignatiô đã đề cập tới cộng đoàn tín hữu qua cách diễn tả
như sau: nơi nào có giám mục, nơi đó có cộng đoàn, nơi nào có Chúa Kitô, nơi đó
có Giáo hội công giáo” (Smyr, 8,2).[1] Như
thế, bất cứ tập thể nào được Chúa Kitô quy tụ lại với nhau dưới sự chủ tọa của
vị giám mục đều được gọi là Giáo hội công giáo, bất kể tập thể các tín hữu đó
hiện diện ở nơi nào. Vậy, Ignatiô đã sử dụng tính từ “công giáo”, để diễn tả
tính phổ quát của Giáo hội không chỉ theo nghĩa địa lý hay số lượng nhưng còn có
nghĩa là sứ điệp Tin mừng. Bất cứ nơi nào tin vào Tin mừng, tin vào sứ điệp của
Đức Kitô dưới sự hướng dẫn của vị giám mục thì nơi đó là một với giáo hội phổ quát.
Đặc
tính duy nhất:
khi cộng đoàn Côrintô có những xáo trộn bất đồng, từ Rôma, Clêmentê đã gửi một
bức thư cho cộng đoàn này. Qua bức thư đó ta thấy Clêmentê quan tâm đến tính
duy nhất của Giáo hội cũng như trách nhiệm liên đới qua danh từ “chúng ta”. Trong
thư ngài viết “vì chúng ta cùng đứng trên
một bờ tường của cùng một vận động trường và chính cuộc chiến đấu này đang chờ
đợi chúng ta”. Qua cách dùng từ “chúng ta” rất nhiều lần, ngài khẳng định
chuyện của Giáo hội ở Côrintô cũng chính là chuyện của Giáo hội ở Rôma và giải
quyết nó là vấn đề chung của “chúng ta”.[2]
Đặc
tính vừa thiêng liêng vừa hữu hình:
Theo Thánh Clêmentê, Giáo hội đã hiện hữu trước khi vạn vật được tạo thành và
đó là Giáo hội thiêng liêng, vô hình và son sẻ. Còn trong hiện tại, Giáo hội đã
mặc lấy xác phàm, trở nên thân thể Chúa Kitô, hôn thê của Chúa Kitô. Chính vì
thế, Vai trò của Giáo hội không chỉ có chức năng thực tiễn nhưng còn biểu thị
trật tự thần linh, bởi tự yếu tính, Giáo hội là thiêng liêng, hiện hữu trước
khi xuất hiện cách hữu hình. Do đó, theo Ignatiô, Giáo hội trong những khía cạnh
hữu hình của mình được cảm nghiệm như là sự biểu lộ một yếu tố vô hình và thiên
quốc. [3] Tư
tưởng này được thể hiện trong lá thư được gọi là thư thứ hai của Clêmentê như
sau: “Thưa anh em, khi thực thi thánh ý
Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng ta thuộc về Giáo hội thứ nhất thiêng liêng đã
được tạo dựng trước mặt trời mặt trăng...các sách Tiên Tri cũng như Tông đồ dạy
rằng Giáo hội không chỉ hiện hữu từ lúc này; nhưng từ buổi ban đầu, Giáo hội đã
là thiêng liêng như Chúa Giêsu của chúng ta. Và Giáo hội, vốn thiêng liêng, đã
trở nên hiện hữu trong thân xác Chúa Kitô. Vì thế … ai trong chúng ta gìn giữ
Giáo hội trong thân xác mình mà không làm hư hoại Giáo hội thì người ấy sẽ đón
nhận Giáo hội trong Thánh Thần”.[4]
Như vậy, các Giáo
phụ cho thấy hình ảnh của Giáo hội được phản chiếu nơi thân xác người tín hữu.
Chính đời sống của chúng ta sẽ phản ánh hình ảnh sinh động của Giáo hội. Trong
tác phẩm Người mục tử Hermas, Giáo hội
được ví như một Tôn mẫu khả kính. Hình ảnh già nua của Giáo hội trong thị kiến
ám chỉ sự tiền hữu đời đời của Giáo hội trong ý định của Thiên Chúa: “Và một tôn mẫu trong y phục lộng lẫy tiến đến,
tay bà cầm sách, bà ngồi một mình và chờ tôi: “Chào Hermas”. Và tôi buồn khổ,
khóc lóc, tôi đáp lại: “Xin chào bà” (…)
Tôi
hỏi người trẻ tuổi: “ai đó?” ông đáp: “Giáo hội”. Tôi hỏi lại: “nhưng sao Giáo hội
già thế?” ông trả lời: “vì Giáo hội đã được dựng nên trước tất cả. Đó là lý do
tại sao Giáo hội lại già”.[5]
Giải thích hình ảnh
già nua của Giáo hội, người trẻ tuổi (một thiên thần) cho rằng đó là “vì sự bạc nhược mềm yếu và nghi ngờ của
ngươi”. Như thế, hình ảnh cùa Giáo hội liên hệ với đời sống của người tín hữu.
Khi phạm tội, con người làm cho hình ảnh của Giáo hội nơi mình già và xấu
đi. Khi vứt bỏ sự bạc nhược đó thì Giáo
hội sẽ trẻ trung hơn và cuối cùng Giáo hội sẽ tươi trẻ, xinh đẹp và quyến rũ nếu
chúng ta biết thống hối và trở lại.
2.
Tổ
chức của Giáo hội:
Phẩm
trật: Đặc tính
phổ quát và duy nhất của Giáo hội được cụ thể hóa qua hình ảnh Giáo hội phẩm trật,
với sự chủ tọa của giám mục, sự cộng tác của hàng linh mục và việc phục vụ của
các phó tế. Phẩm trật ba bậc này được Ignatiô biện minh bằng những lý do thần
bí. Những giám mục chủ tọa và điều khiển cộng đoàn như đại diện của Thiên Chúa,
các linh mục được so sánh với các tông đồ
và phó tế là những tôi tớ của Thiên Chúa. Quả thật, Ignatiô đã viết: “Tôi khích lệ anh em, hãy hết lòng làm mọi sự
trong sự thuận hòa thần linh, dưới sử chủ tọa của giám mục, đấng thay mặt Thiên
Chúa, của các linh mục giữ vị trí hội đồng các Tông đồ, của các phó tế rất thân
ái của tôi là những người được ủy thác phục vụ Chúa Giêsu Kitô”.[6]
Còn trong thư gửi
cho Giáo hội ở Côrintô, Clêmentê nhắc nhở việc tôn trọng trật tự trong cộng
đoàn. Việc cấu trúc hóa cộng đoàn bao gồm: các giám sự, niên trưởng và những
phó tế. Lúc bấy giờ chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa các giám sự (giám mục) với
các niên trưởng (linh mục). Clêmentê nhấn mạnh những thừa tác viên này được thiết
lập bởi các Tông đồ, các Tông đồ thì đến từ Đức Kitô và Đức Kitô đến từ Thiên
Chúa. Những vị này được đặt lên bởi sự ưng thuận của toàn thể cộng đoàn tại nơi
đó cũng như của những cộng đoàn xung quanh. Như vậy, theo Clêmente trẩm trật
này có tính truyền thống từ các Tông đồ, có nguồn gốc sâu xa từ Thiên Chúa và
được liên tục kế nhiệm cho đến ngày nay.[7]
Quyền ưu tiên của
Rôma: Qua bức
thư này, ta thấy Clêmentê đại diện cho Giáo hội ở Rôma để ngỏ lời với Giáo hội ở
Côrintô, điều đó vừa nói lên tính hiệp thông, duy nhất vừa chứng tỏ một thứ uy
quyền của Giáo hội Rôma. Trong thư ngài viết: “nếu có một số người bất phục những gì chúng ta nói với họ về họ, thì họ
hãy biết rằng họ đang dấn mình vào lầm lạc và những hiểm nguy không nhỏ”.[8]
Qua thư của Ignatiô
gửi giáo đoàn Rôma, ta thấy ngài nhìn nhận tính ưu quyền cũng như một sự trỗi
vượt nào đó của Giáo hội Rôma. Giáo hội được Ignace đánh giá cao về đức ái
“agapè” và đức tin tinh tuyền: “Giáo hội
chủ trì trong miền đất của người Rôma, xứng đáng với Thiên Chúa, xứng đáng mọi
vinh dự, xứng đáng được gọi là chân phước, xứng đáng được mọi thành công, xứng
đáng mọi tinh tuyền, chủ tọa trong đức ái…”[9]. Qua
cách nói “chủ tọa trong đức ái”,
Ignatiô chứng nhận Giáo hội Rôma là Giáo hội đã “giáo huấn những Giáo hội khác”
và đã quy định cho các Giáo hội khác những bài học, là Giáo hội mà đức tin được
tinh luyện khỏi mọi màu sắc ngoại lai, là Giáo hội có quyền hướng dẫn và điều
khiển trên các giáo đoàn khác bởi nguồn gốc Tông đồ phát xuất từ cuộc tử đạo của
hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô.[10]
3.
Đời sống của Giáo hội
Hiệp
nhất và hiệp thông
là mối bận tâm lớn của các Giáo phụ Tông đồ. Lý do là vì Giáo hội đang trong
giai đoạn phát triển lan rộng, cơ cấu Giáo hội thì chưa hoàn thiện, hơn nữa
Giáo hội lại đối diện với nhiều khó khăn bên trong lẫn bên ngoài. Trong bối cảnh
đó, Ignatiô không ngừng rao giảng sự hiệp nhất: “anh chị em hãy yêu mến sự đoàn kết, xa lánh chia rẽ, hãy là những người
bắt chước Đức Giêsu Kitô cũng như chính Ngài đã bắt chước Cha Ngài”.[11] Điều
gìn giữ sự hiệp nhất là agapè, được diễn tả qua việc quan tâm giúp góa phụ, cô
nhi cũng như qua việc thăm viếng và tương trợ giữa các Giáo hội với nhau. Sự hiệp
nhất được ngài nhấn mạnh bằng từ “một”, “độc nhất”, “kết hợp”. Theo thánh
Ignatio, Giáo Hội là sự kết hợp, hiệp nhất, đồng tâm, và nên một trong Đức Ái.
Đó là điều Thiên Chúa và Đức Kitô muốn.[12]
Sự hiệp nhất giữa các
tín hữu nhờ vào chính sự kết hiệp trong Chúa Kitô. Thánh Ignatiô không ngừng nhắc nhở các Kitô hữu hãy
nên một với Chúa Kitô cách cụ thể qua việc hiệp nhất với giám mục của mình
trong đức tin, trong vâng phục, và nhất là trong phụng vụ. “Chớ gì giữa anh em, không có một điều gì có
thể phân rẽ anh em. … anh em đừng làm bất cứ điều gì mà lại không có giám mục
và các trưởng lão: điều gì anh em làm theo theo riêng mình thì đừng cố coi là hợp
lý, mà phải là những gì anh em làm chung với nhau: một kinh nghiệm duy nhất, một
lời khẩn cầu duy nhất, một thần khí duy nhất, một niềm hy vọng duy nhất trong đức
ái”.[13]
Cộng đoàn hiệp nhất
với nhau dựa trên đức ái cũng chính là giáo huấn của Clêmentê. Trong thư gửi
giáo đoàn Côrintô, Clêmente bày tỏ mối bận tâm về đặc tính duy nhất và hiệp
thông của cộng đoàn như sau: “Nếu ngôn ngữ
có khác nhau trên thế giới, thì nội dung của truyền thống vẫn là một, đồng nhất.
Cả những Giáo hội thiết lập ở Germanie cũng không có một đức tin khác hay truyền
thống khác, cả các Giáo hội của người Ibère, người Celtes, cả những Giáo hội ở
Đông Phương, ở Ai Cập, ở Libye… là một và đồng nhất trên toàn thế giới”.[14] Như
thế sự hiệp nhất không chỉ là trong nội bộ cộng đoàn với nhau nhưng còn là giữa
các cộng đoàn trên thế giới.
Vâng
phục: Giám mục chính
là trung tâm của Giáo hội địa phương, do đó sự hiệp thông trong Giáo hội còn được
thể hiện qua việc tôn trọng quyền quản trị trong Giáo hội, cụ thể là quyền kế vị
Tông đồ. Thánh Clêmente nhấn mạnh cộng đoàn giáo dân không có quyền truất phế
các linh mục vì quyền quản trị trong Giáo hội phát xuất từ các tông đồ và các
tông đồ đã nhận từ chính Chúa Kitô. Do đó, “những người nào đã được trao trách vụ từ các tông đồ và đã phục vụ một
cách không thể chê trách đoàn chiên của Chúa cách khiêm nhường, bình an và khôn
ngoan, chúng tôi thấy rằng không đúng khi truất phế tác vụ của các ngài”.[15]
Đời
sống cộng đoàn: Thư
của Barnabê đề cập nhiều đến đời sống luân lý, đó là giáo lý về hai con đường
giữa sự sống và sự chết. Qua thư tác giả nhấn mạnh đến việc phải thánh hóa ngày
hưu lễ. Tác phẩm người mục tử Hermas
trình bày những giới răn phù hợp với đời sống mới của hối nhân, trong đó đề cao
việc chay tịnh, đổi mới đời sống luân lý, thi hành luật Chúa và thực thi bác
ái. Trong tác phẩm này, người ta gặp thấy đủ hạng người nơi Giáo hội: những kitô
hữu đủ loại tốt xấu, những thừa tác viên tốt cũng như những vị còn nhiều khiếm
khuyết, những vị tử đạo cũng như những người bội giáo. Tác giả mô tả những mặt
phải trái của cộng đoàn để kêu gọi mọi ngưới thống hối cũng như khơi lên lòng lạc
quan tin tưởng vào Thiên Chúa và Hội thánh.
Tóm lại, trong khi lan
rộng khắp nơi trên thế giới thì nhu cầu hiệp nhất về cơ cấu tổ chức cũng như hoàn
thiện giáo lý của Giáo hội là cần thiết. Do vậy, ta dễ hiểu khi thấy mối bận
tâm lớn nhất của Giáo hội lúc này là về chính Giáo hội. Qua các tác phẩm của
mình, các Giáo phụ Tồng đồ đã cho thấy có một sự thống nhất về những đặc tính của
Giáo hội cũng như về cơ cấu tổ chức và dần hoàn thiện về đời sống. Đó là một
Giáo hội mang tính duy nhất, truyền thống nhưng đồng thời cũng là Giáo hội phổ quát,
Giáo hội vừa hữu hình vừa thiêng liêng. Giáo hội hiệp nhất trong cơ cấu phẩm trật,
trong sự vâng phục cũng như đức ái. Tất cả những điều đó sẽ là nền tảng để Giáo
hội tồn tại cho đến ngày nay.
[1]
Xc. Lê Văn Chính, giáo trình Giáo Phụ học (TP.HCM: ĐCV thánh Giuse, 2009), tr. 33.
[2]
Xc. P.Tihon, Lịch sử Tín điều, phần II Giáo hội (Tủ
sách Thần học, 2009), tr. 29.
[3] Xc.
sđd,
tr. 22-23.
[4] Lê Văn Chính, tr. 30-31.)
[5] Sđd, tr. 43.
[6] Sđd, tr. 33.
[7]
Xc. P.Tihon, Sđd, tr. 28.
[8] Sđd, tr. 29.
[9] Lê Văn Chính, sđd, tr. 34.
[10]
Xc. P.Tihon, Sđd, tr. 32.
[11] Sđd, tr. 31.
[12] J. Liébaert, Giáo Phụ (ĐCV thánh Giuse), tr. 25-26.
[13] Sđd, tr. 29-30.
[14] Sđd, tr. 19.
[15] Lê Văn Chính, sđd, tr. 28.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét