Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

PHẦN THƯỞNG CHO AI TÌM GẶP CHÚA



Thứ hai Bát nhật Phục sinh (Mt 28,8-15)
Đức Giê-su đón gặp các bà và nói : "Chào chị em !...Chị em đừng sợ ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó."
Lòng thổn thức, lo lắng, các bà đã ra mộ từ sáng sớm. Các bà muốn đến với Đức Giê-su càng sớm càng tốt, dù cho chỉ gặp một cái xác mà thôi! Nhưng Chúa đâu còn ở đó để các bà gặp.
Chúa Phục sinh đã nhận thấy tấm lòng của các bà, nên đã chủ động đón gặp. Đó là phần thưởng dành cho những ai biết để tâm tìm gặp Chúa ngay từ sáng sớm. Chúa cũng sẽ thưởng công cho ta nếu ta biết danh thời gian để tìm kiếm Người.
Không chỉ cho gặp, Chúa còn tin tưởng trao cho các bà sứ vụ quan trọng: chứng nhân và loan báo Tin Mừng Phục sinh. Không phải các môn đệ nhưng chính các bà là những chứng nhân đầu tiên và là những nhà truyền giáo đầu tiên. Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta trở thành chứng nhân Tin Mừng phục sinh. Lẽ nào ta lại từ chối?

QUẢ TRỨNG PHỤC SINH

Tập tục “quả trứng Phục Sinh” phát xuất từ đâu và có ý nghĩa gì?
Đến lễ Phục Sinh, ta thường thấy các tấm cards hay vẽ hình quả trứng, hoặc có những miếng xô-cô-la hình quả trứng. Vậy đâu là nguồn gốc và ý nghĩa của “Quả trứng Phục Sinh”:
- Tại Trung Âu, vào đêm Phục Sinh, sau thánh lễ, vị linh mục Chính thống chúc lành cho các giỏ thực phẩm mỗi gia đình mang tới, trong đó luôn luôn có ít quả trứng có khi được tô vẽ bên trên.
- Tại Biêlorussia và Ukraina, vào sáng Chúc Nhật Phục Sinh, những người chính thống phái Uniát (chấp nhận quyền bính của Đức giáo hoàng) cắt một quả trứng ra và mỗi người ăn cách thật kính cẩn.
Người Chính thống giữ Mùa Chay nhiệm nhặt hơn ta, và trong bảy tuần, họ không ăn một tí thịt hay một tí mỡ thú vật nào, cũng không ăn cá (trừ một lần giữa Mùa Chay) để rồi vào ngày lễ Phục Sinh, họ ăn trứng: như vậy, quả trứng chấm dứt Mùa Chay và là món ăn có chất prô-tê-in đầu tiên của mùa xuân và trở thành dấu chỉ sự đổi mới và báo tin mừng Phục Sinh.
- Tại Roumania, người ta cầm một quả trứng “cụng” vào quả trứng của chủ nhà và mừng lễ ông: Đức Kitô đã phục sinh. Người ta cũng thường viết thư trên các quả trứng và gửi cho những người họ thương mến.
Từ đó phát sinh tục lệ gửi trứng Phục Sinh mừng nhau (trên đó có khi ghi một sứ điệp tôn giáo), và thành hình một loại nghệ thuật dân gian truyền thống, có những quy luật, những ý nghĩa tượng trưng, khác nhau ít nhiều tùy miền, tùy xứ.
Như thế, quả trứng Phục Sinh có trang trí chính là một phương tiện chuyển thông sứ điệp Phục Sinh (sự đổi mới và sức sống). Hôm nay, chúng ta có thể dùng cách thức đó để cầu chúc cho nhau được đổi mới và có chan hòa sức sống mới của Đức Kitô Phục Sinh.

Tóm lược từ bài viết của Lm PX Phan Long, ofm đăng tại kinhthanhvn.net

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

CHẾT ĐỂ PHỤC SINH



Thứ Bảy Tuần Thánh
Nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su (1Tx 4,14)
Viện dưỡng lão chiều nay có vẻ u buồn hơn, vắng vẻ hơn, không chỉ vì là thứ Sáu Tuần Thánh mà còn vì sự ra đi của Cụ.
Đời người mấy ai sống nổi trăm năm. Cụ là một trong số ít ỏi đó. Trăm năm cuộc đời chẳng phải là ngắn. Từng đó thời gian, lẽ ra đủ để người ta thực hiện ước mơ của đời mình! Cụ đã mơ ước gì? Đã thực hiện nó ra sao? Tôi cũng không rõ lắm. Nhưng nhìn cảnh cụ từ giã cuộc đời tôi thấy băn khoăn làm sao ấy! Chiếc hòm nhỏ gọn nằm lọt thỏm giữa không gian rộng lớn của viện dưỡng lão. Không một khăn tang. Không tiếng nấc nở nghẹn ngào. Phải chăng chỉ là vài tiếng thở dài đồng cảm của những con người cùng cảnh ngộ.
Tôi liên tưởng đến cảnh ngộ của thầy Giê-su. Chỉ mới đây thôi, người người tung hô, nhà nhà reo mừng, vậy mà, thê thảm quá! Cái chết không ai đoán trước. Chiều Canvê u buồn, lắng động. Thỉnh thoảng uất lên vài tiếng nấc nghẹn ngào của vài phụ nữ và người môn đệ yêu dấu.
Nhưng không sao! Rồi mọi sự sẽ thay đổi. Bóng tối sẽ chuyển thành ánh sáng. Cái chết sẽ nhường chỗ cho sự sống. Đau thương sẽ biến thành vinh quang.
Cụ cũng được an ủi phần nào vì “ra đi” cùng ngày với Đấng mà hàng ngày Cụ vẫn tin thờ. Chắc chắn Cụ sẽ gặp được Người và sẽ chỗi dậy cùng Người. Mong rằng ngày đó sẽ mau đến với Cụ.

YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ



Thứ Năm Tuần Thánh (Ga 13,1-15)

Chuyện kể rằng có một bà cụ, nhìn thấy bên dòng nước một cành cây khô, trên cành cây có con bò cạp đang loay hoay để tránh rơi xuống nước. Thấy vậy, bà cụ với tay kéo cành cây vào bờ. Chẳng may bị con bò cạp cắn phải, bà ôm tay đau đớn. Có người trông thấy liền trách bà sao dại dột cứu làm chi con bò cạp. Bà trả lời: cắn người là bản năng của bò cạp còn yêu thương là bản chất của con người. Bà không thể thấy chết mà không cứu. Bị nó cắn chẳng qua do bà không cẩn thận mà thôi.
Vâng, kính thưa cộng đoàn. Yêu thương chính là bản chất của con người. Người xưa có câu: Nhân chi sơ tính bản thiện. Con người tự bản chất là thiện, là hướng đến những việc tốt lành, là sống yêu thương nhau.
Với đức tin Ki-tô giáo, yêu thương của con người còn xuất phát từ Thiên Chúa vì thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ cách cụ thể qua việc cho Con Một của Ngài đến ở với chúng ta, để đồng lao cộng khổ với chúng ta. Và trong ngày thứ Năm Tuần Thánh hôm nay, chúng ta tưởng niệm lại những hành động yêu thương cụ thể của Đức Giê-su.
Trước hết là hành động cúi xuống rửa chân cho các môn đệ.
Nếu một vị vua, hay một vị thủ tướng mà cúi xuống rửa chân cho thần dân của mình thì có lẽ, điều đó cũng vượt ngoài trí tưởng tượng của chúng ta. Thế nhưng, Đức Giê-su, là Con Một Thiên Chúa, là Thiên Chúa cứu độ nhưng đã tự nguyện quỳ xuống rửa chân cho các đồ đệ của mình. Đây quả là hành động xưa nay hiếm thấy. Đó không chỉ là một hành động khiêm nhường nhưng trên hết là một hành động yêu thương. Chỉ với một tình yêu lớn lao, không phân biệt, không so đo, không tính toán mới có thể thực hiện một hành động như thế. Hình ảnh cúi xuống rửa chân diễn tả một tình yêu sẵn sàng dấn thân phục vụ, sẵn sàng cúi xuống trên những phận người khốn khổ, nghèo nàn, thậm chí là những người mà rồi đây, họ sẽ chối bỏ hay phản bội. Thế nhưng tình yêu của Đức Giê-su là tình yêu vô điều kiện.
Bài học Đức Giê-su để lại cho chúng ta thật rõ ràng. Đó là yêu thương và phục vụ nhau cách vô vị lợi. Nhất là dám cúi xuống trên những thân phận cần sự quan tâm nhất, cần sự giúp đỡ nhất. Bài học này không chỉ dành cho các tông đồ mà thôi nhưng là cho mọi môn đệ của người, trong đó có chúng ta.   
Bài học Đức Giê-su để lại cho chúng ta không phải là quá khó, bởi trong lịch sử Giáo hội cũng đã cho thấy nhiều mẫu gương hy sinh phục vụ như thế.
Trong cuốn nhật ký truyền giáo tại Tây Nguyên, cha Dourisbour đã kể lại một cuộc đối thoại giữa cha và một em nhỏ người Bana như sau:
  • Cha từ đâu tới đây?
  • Cha từ nước Pháp, cách đây rất xa.
  • Cha có yêu đất nước của cha không?
  • Có chứ! Cha yêu đất nước của cha, nơi cha đã sinh ra và lớn lên, nơi đã cho cha rất nhiều kỷ niệm.
  • Thế cha có yêu bố mẹ và gia đình của cha không?
  • Có chứ! Cha rất yêu và nhớ bố mẹ cùng gia đình của cha.
  • Thế tại sao cha lại bỏ họ để đến đây ở với chúng con, một nơi rất xa lạ và thiếu thốn nhiều thứ?
Suy nghĩ một lát, cha trả lời: Bởi vì cha rất yêu chúng con. Cha yêu chúng con như yêu cha mẹ của cha vậy. Vì yêu, cha còn có thể làm nhiều thứ cho chúng con nữa.
Và thế là khởi đi từ tình yêu của con người, khởi đi từ những gì rất cụ thể, cha bắt đầu nói với em về tình yêu của Thiên Chúa, một khái niệm quá trừu tượng đối với trí hiểu non nớt của các em.
Kính thưa cộng đoàn, vì yêu thương và muốn phục vụ, nhiều nhà thừa sai đã không quản ngại đường xá xa xôi hiểm trở cũng như muôn vàn khó khăn khác để ra đi, đến những vùng truyền giáo xa xôi, hẻo lánh, để nói về tình yêu Thiên Chúa cũng như để biểu lộ tình yêu của các ngài. Nhiều vị đi chưa đến nơi thì đã bỏ mạng vì thời tiết khắc nghiệt, vì bị quân lính vây bắt. Nhiều vị suốt đời âm thầm hy sinh, phục vụ người nghèo. Chẳng hạn như đức cha Cac-xanh một đời phục vụ người cùi ở trại phong Di Linh và cuối đời đã chết vì chính căn bệnh này.
Cứ dấu này mà người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ thầy, đó là anh em hãy yêu thương nhau. Từ đây, yêu thương trở thành dấu hiệu để nhận biết môn đệ Đức Giê-su. Giáo hội mở rộng tới đâu, tình yêu lan rộng tới đó. Khi đạo Công giáo mới phát triển tại Việt Nam, người ta đã gọi đây là “đạo yêu nhau”. Không phải là tình yêu riêng biệt của một đôi bạn trai gái, cũng không chỉ là tình yêu mở ngỏ cho một gia đình bé nhỏ mà thôi, nhưng là tình yêu nối kết tất cả chúng ta trong một đại gia đình mà Đức Ki-tô là trung tâm. Tình yêu luôn mang dấu ấn Đức Ki-tô.
Thực vậy, Đức Giê-su mời gọi chúng ta hãy yêu như Người đã yêu. Người đã yêu như thế nào? Đó là tình yêu sẵn sàng chết đi, không chỉ cho bạn hữu mà là cho một tội nhân. Vì dù là một tội nhân thì tội nhân đó vẫn là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái của Thiên Chúa. Đó chính là đặc trưng của tình yêu Ki-tô giáo.
Tình yêu đó ngày nay vẫn được diễn tả nơi muôn vàn khuôn mặt khác nhau của Giáo hội.
Chuyện kể rằng trong trại tù của Đức Quốc xã, có một luật lệ là hễ 1 tù nhân trốn thoát thì 10 người tù khác phải chết thay cho anh ta. Lần nọ, có một tù nhân trốn thoát và người cai tù đã triệu tập tất cả các tù nhân đến. Ông đi một vòng và chỉ: ngươi, ngươi, ngươi… những người ông chỉ là những người sẽ phải chết thay cho tù nhân trốn thoát. Khi ông chỉ đến tù nhân thứ 10 thì ông này vội quỳ xuống khóc lóc van xin: xin hãy tha cho tôi vì tôi còn có vợ và con dại ở nhà. Họ đang mong chờ tôi trở về…
Người cai tù không đồng ý, bỗng dưng trong hàng ngũ tù nhân còn lại có một cánh tay giơ lên: tôi xin được chết thay cho người này. Viên cai tù hỏi: mày là ai? Tại sao mày lại muốn chết thay cho nó. Người này từ tốn trả lời: Tôi là một linh mục Công giáo, tôi không có vợ, không có con. Tôi xin được chết thay cho người này vì anh ta còn có vợ, có con. Người xin chết thay này chính là thánh Maxximiliano Kolbe. Hành động sẵn sàng chết thay của ngài đã phần nào diễn tả lại hành động của Đức Giê-su. Nếu không có tình yêu, nếu không xuất phát từ tình yêu, người ta sẽ không có những suy nghĩ và hành động cao đẹp như thế.
Lời mời gọi tình yêu không nhất thiết đòi hỏi chúng ta hy sinh mạng sống nhưng còn có nhiều cách thế khác phù hợp hơn với cuộc sống của mỗi người chúng ta. Sự hiện diện của các sr trong cộng đoàn này, sự âm thầm phục vụ hàng ngày của các sr cũng là một cách thức biểu lộ tình yêu. Sự kiên trì nhẫn nại trong công việc, thái độ khiêm tốn vui tươi khi trò chuyện tiếp xúc với nhau cũng là những cách thức biểu lộ tình yêu. Sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, trò chuyện cởi mở, chia sẻ chân thành của các cụ cũng là cách thức biểu lộ và diễn tả tình yêu.
Và kính thưa cộng đoàn, tình yêu còn được biểu lộ và diễn tả qua việc hiện diện ở bên nhau. Khi đã yêu thương thì người ta muốn ở bên nhau, người ta sẵn sàng chờ đợi nhau để được gặp gỡ, để được kề cận bên nhau. Đức Giê-su đã biểu lộ tình thương bằng cách thiết lập bí tích Thánh Thể để ở lại mãi với con người. Nơi bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa sẽ kết hợp với con người. Thiên Chúa sẽ ở lại trong chúng ta.
Ngài luôn chờ đợi chúng ta nơi nhà chầu để chúng ta có thể đến cầu nguyện bằng cách nói chuyện, chia sẻ, tâm sự với ngài. Chúng ta có thể trút nhẹ những lo lắng, những băn khoăn, những sợ hãi của chúng ta cho Ngài. Trung thành và kiên nhẫn đến với Ngài, ở bên Ngài rồi chúng ta cũng sẽ nhận được sự an ủi và ơn bình an trong những lúc khó khăn, đau đớn của cuộc sống.
Chuyện kể rằng có một cụ nông dân, mỗi lần đi làm ngang qua một ngôi nhà nguyện, cụ ghé vào trong tích tắc rồi lại trở ra ngay. Mọi người thắc mắc không biết cụ vào đó làm gì mà nhanh thế?
Thế rồi cụ mắc phải căn bệnh nghiêm trọng. Trong phòng bệnh, mọi người đau đớn, kêu la, cau có. Thế nhưng cụ lại khác. Dù không có nhiều người ghé thăm nhưng người ta thấy cụ luôn nở nụ cười trên môi, thỉnh thoảng cụ như đang tiếp chuyện với ai đó.
Tò mò, người ta hỏi thăm thì cụ trả lời. Trước đây, hàng ngày tôi ghé vào nhà nguyện để thăm Đức Giê-su nên bây giờ, hàng ngày Đức Giê-su cũng đến đây để thăm tôi. Mọi người lại càng thắc mắc hơn và hỏi xem khi đến thăm ông, Đức Giê-su đã nói gì. Ông trả lời. Trước đây, tôi không biết cầu nguyện thế nào nên mỗi lần đến thăm Chúa tôi chỉ nói: Chúa ơi, con là T… đây, con đến đây để thăm Chúa. Bây giờ, Chúa cũng đến và chỉ nói với tôi là: T… à, Ta là Giê-su đây, Ta đến để thăm con. Chúa chỉ nói từng đó nhưng tôi rất hạnh phúc.
Vâng, hạnh phúc thật đơn giản nhưng cũng thật quý giá. Ước gì mỗi người chúng ta cũng đến với Chúa Giê-su Thánh Thể hàng ngày để chính Ngài cũng sẽ đến thăm ta vào những lúc ta cần Ngài nhất.

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014

VÌ TIỀN




Thứ Tư Tuần Thánh (Mt 26,14-25)

Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng tế mà nói : "Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu."


Vì tiền mà tình thầy trò tan vỡ, nghĩa đồng môn không còn
Ngày nay, nhiều người cũng đang đánh mất nhiều thứ vì tiền.
Vì tiền người ta:
                tự hạ thấp chính mình khi bôi nhọ danh dự của một học sinh
                đánh mất lòng tin của người hâm mộ qua việc bán độ
                bán đi một phần thân thể để giải quyết cảnh khó nghèo
                bán đi danh dự và phẩm giá để lăng xê chính mình
                cắt đứt tình nghĩa anh em, vợ chồng
                phản bội nhau để trục lợi cho mình
    bán đi thể diện của một quốc gia
                hủy hoại đi một mầm sống “ngoài kế hoạch”
    đánh đổi hạnh phúc đời đời
Tiền, cần thật đấy, nhưng vì tiền mà đánh đổi như thế thì liệu có nên chăng?