Xúc phạm đến Thiên Chúa là một lỗi phạm nghiêm trọng. Dù có ăn năn, con người vẫn không thể tự mình giải thoát. Chính vì vậy, Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến, mặc lấy thân phận con người, chịu mọi sự gian khổ và cả cái chết để cứu độ con người (x. Dt 2, 9-10). Đây là cách đồng hành cao cả nhất.
Đồng hành là cùng đi, cùng chịu những tác động và ảnh hưởng, cùng chia sẻ những ưu tư lo lắng và cùng giúp nhau tiến về phía ánh sáng. Một anh em chúng tôi đã chia sẻ : “Lời đã mặc lấy thân phận con người và đồng hành với nhân loại. Lời đã trở nên bạn hữu của con người. Đức Giêsu có một nỗi đam mê, đó là nỗi đam mê con người, mê làm bạn với con người. Vì làm bạn với con người nên Đức Giêsu chia sẻ với con người trọn vẹn thân phận và mọi mối lo lắng trong cuộc sống. Có niềm vui hay nỗi khổ nào của kiếp nhân sinh này mà lại xa lạ với Đức Giêsu đâu. Người yêu thương và gần gũi với con người hơn chính con người gần gũi với nhau nữa.”[1]
Nếu phải tìm ra một khuôn mẫu cho sự đồng hành thì câu chuyện trên đường Emmau sẽ là minh họa tuyệt vời nhất. Câu chuyện này mở đầu với nỗi thất vọng của hai môn đệ trên đường về quê. Đức Giêsu Phục sinh chủ động tiến tới gần và cùng đi với họ. Ngài hỏi thăm hoàn cảnh của hai ông và dẫn các ông vào nguồn mạch thánh kinh. Ngài đã dùng thánh kinh để mở lòng họ và khi lòng họ đã bừng cháy, Ngài mới tỏ mình ra và sau đó liền rút lui để lại một khoảng không cho hai ông tự hành động. Đây là một câu chuyện thật súc tích và hàm ẩn nhiều ý nghĩa. Khởi đi từ việc chủ động làm quen với họ và kết thúc là việc khiến họ biến đổi bằng những hành động cụ thể. Đó chính là mục đích của việc đồng hành.
Chúng ta cùng bước vào hành trình về quê cùng Đức Giêsu và hai vị khách để tìm ra cách thức đồng hành với tha nhân.
1. Nhận ra những ưu tư nơi con người
Tin mừng thánh Luca kể về hai môn đệ trên đường trở về quê nhà Emmau. Họ vừa đi vừa trò chuyện với nhau, lòng buồn bã. Đúng lúc đó Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ (x.Lc 24, 13-17).
Bước đầu tiên của việc đồng hành chính là nhìn và nhận ra những ưu tư nơi con người. Hai môn đệ trên không nằm trong số mười hai tông đồ, nghĩa là họ không được Chúa kêu gọi cách đặc biệt. Thế nhưng họ vẫn từ bỏ mọi sự để rong ruổi theo Thầy. Dù cho hy vọng của họ là khôi phục vương quốc Israel hay ước mong đạt đến sự trọn lành, thì bước chân của họ đã nói lên một tấm lòng khao khát. Họ đã thực sự khao khát và hành động để biến khao khát đó thành hiện thực. Thật vậy, sự thật là họ đã từ bỏ quê hương, gia đình và công ăn việc làm để theo đuổi một lý tưởng. Thế nhưng lý tưởng đó lại bị chận đứng trên đỉnh đồi Gôngôtha. Họ đi lên đỉnh núi với nỗi thất vọng ê chề. Giờ đây trước mắt họ là một khoảng trống âm u. Bước chân trở về Emmau nặng nề làm sao ! Họ phải từ bỏ niềm hy vọng để làm lại cuộc đời. Họ phải chuẩn bị tinh thần để đối mặt với sự cười chê, khinh thường của làng xóm láng giềng. Chắc hẳn bước chân Emmau nặng trĩu mỏi mệt.
Hơn ai hết, Chúa Giêsu đọc được tâm trạng của họ. Chúa Giêsu không chỉ nhìn con người cách hời hợt theo dáng vẻ bên ngoài, Ngài có thể nhìn thấu suốt những bí ẩn bên trong. Ngài nhìn cách trọn vẹn và sâu thẳm. Thật vậy, Kinh Thánh nhiều lần thuật lại những cái nhìn đặc biệt của Chúa Giêsu. Khi thấy dân chúng theo mình nghe giảng nhiều ngày mà không được ăn uống nghỉ ngơi đầy đủ, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương vì thấy họ bơ vơ vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt. Khi đi qua bàn thu thuế, Đức Giêsu nhìn thấy Lêvi (mà người Dothái coi là tội lỗi) có tâm hồn khao khát chân lý, sẵn sàng từ bỏ tất cả để theo Người. Đức Giêsu nhìn ra niềm tin vững mạnh như đá tảng nơi những người đánh cá đơn thành mộc mạc. Ngài nhìn thấy hai đồng tiền của bà góa là cả một gia tài. Ngài nhận ra trong hành động lau chân của cô gái tội lỗi một tấm lòng hối cải và yêu thương. Và còn nhiều nữa những tâm can Đức Giêsu nhìn xuyên thấu. Đó là cái nhìn của một người luôn quan tâm, chia sẻ và đồng hành cùng với con người. Từ cách nhìn đó, Đức Giêsu chủ động tiến đến với họ.
2. Chủ động đến gần và lắng nghe
Nhận thấy những ưu tư lo lắng, những bất ổn nơi tâm hồn hai môn đệ, Đức Giêsu không bàng quan nhưng Ngài đã nhập cuộc. “Ngài đi bước trước, tự mình nhập cuộc và từ bỏ vị trí của mình – vị thế của Đấng Phục Sinh – để trở nên đơn sơ giản dị, giản dị đến độ họ tưởng Người cũng chỉ là một khách bộ hành như bao người khác”[2]. Ngài đã chủ động trở nên ngang hàng với họ, cùng lộ trình với họ. Ngài nhập cuộc và tham gia vào chính những ưu tư lo lắng của họ : “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau chuyện gì vậy ?” (Lc 24, 17).
Ngài không chỉ chủ động “đến gần và cùng đi” với họ nhưng còn chủ động mở lòng họ. Người gợi ý cho họ thổ lộ tâm tình để rồi lắng nghe và đi vào tâm tình đó. Người không chủ động nói nhưng chủ động lắng nghe. Bởi vì nếu chủ động nói Người sẽ lôi câu chuyện về phía mình và như vậy làm mất đi ý nghĩa của sự đồng hành. Đồng hành tức là cùng đi. Do đó Chúa Giêsu chủ động lắng nghe những tâm tình của họ để “cùng đi” với họ xuất phát từ những tâm tình đó. Câu chuyện xảy ra ở Giêrusalem Đức Giêsu là người biết rõ hơn ai hết, thế nhưng Người không vội thể hiện mình. Người khiêm tốn, nhẫn nại lắng nghe. Khi lắng nghe như thế, Đức Giêsu làm cho hai môn đệ vơi đi phần nào phiền muộn. Người không chỉ lắng nghe nội dung câu chuyện nhưng còn lắng nghe những khát vọng tâm hồn. Nhờ thái độ quan tâm, Đức Giêsu đã tạo được niềm tin nơi hai ông và hai ông đã không ngần ngại chia sẻ những tâm tư thâm sâu nhất của mình. Đó chính là nghệ thuật đồng hành của Chúa Giêsu.
Thật vậy, Lắng nghe là việc không thể thiếu trong các mối tương quan. Việc lắng nghe tích cực sẽ giúp người được lắng nghe bộc lộ tâm hồn cách cởi mở, trung thực, và tránh được thái độ sợ sệt, khép kín, phòng vệ. Lắng nghe ở đây bao hàm sự hiểu biêt, đón nhận và giúp người thụ huấn khám phá ra con người thật của họ, khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong họ. Nhờ việc lắng nghe, cùng với sự chân thành bộc lộ của người thụ huấn, vị đồng hành có thể giúp cho đương sự nhận ra con người thật của họ, khát vọng thâm sâu của họ thông qua những biến cố và tình trạng thật của cuộc sống. Lắng nghe đích thực là thái độ đồng cảm không xét đoán, không phản đối và cũng không quả quyết. Chính thái độ này tạo cho người được đồng hành cảm thấy mình được đón nhận, được an toàn ; từ đó họ có thể dễ dàng bộc lộ tâm hồn mình, can đảm nhìn thẳng vào những gì sâu thẳm nhất, những khuynh hướng tốt cũng như xấu, những yếu đuối và thất bại.
3. Chia sẻ với họ dựa trên nền tảng Thánh kinh
Sự lắng nghe trọn vẹn phải dẫn đến sự hiệp thông và chia sẻ. Đó chính là cách thức lắng nghe của Đức Giêsu. Sau khi nghe hai môn đệ bày tỏ nổi lòng, Đức Giêsu bày tỏ sự hiệp thông và trao ban niềm hy vọng bằng cách dùng Kinh Thánh giải thích sự việc. Đây là một bài học rất đáng giá cho ta học hỏi.
Trọng tâm câu chuyện của họ là một vấn đề rất thời sự có liên quan đến niềm khao khát tâm linh. Sự kiện con người Giêsu Nazarét bị treo trên cây thập giá đã gây hoang mang cho biết bao người. Sự kiện này đang gây lung lạc đức tin hai môn đệ. May thay, Đức Giêsu đã đến kịp thời. Qua Người, toàn bộ câu chuyện được đặt lại dưới ánh sáng Thánh Kinh. Thánh Sử Luca giải thích rõ : “Nào Đức Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả sách thánh” (Lc 24, 26-27). Có thể nói đây là mắt xích quan trọng nhất trong việc đồng hành, làm sao giúp họ nhìn lại những gì họ đã sống, đã cảm nghiệm, để từ đó họ khám phá ra Thiên Chúa, và kế hoạch của Người xuyên qua tất cả những thực tại đó, cho dù đó là thực tại đau thương, bi đát đến đâu chăng nữa.
Ta có thể hình dung trên đoạn đường dẫn về Giêrusalem, ba người cùng đồng hành bên nhau. Đức Giêsu vừa tiến bước vừa giải thích cho hai môn đệ về những gì đã được tiên báo và đã xảy ra. Hai môn đệ cùng sóng bước trong niềm vui, niềm hy vọng đang hé mở và lớn dần. Đức Giêsu giờ đây không còn là một người khách lạ nữa nhưng đã là một người bạn. Tình bạn giữa “người khách lạ” và hai môn đệ đã nảy sinh. Tình bạn của Đức Giêsu đã làm cho người khác được thăng tiến, biến đổi ; những ai một lần được gặp gỡ Người, sẽ thấy đời mình tràn đầy ý nghĩa. Đức Giêsu đồng hành với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, cuộc đời chị đã biến đổi ; Người đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau, các ông đã tìm được ý nghĩa sống giữa cơn khủng hoảng chao đảo. Đức Giêsu đến thế gian để chia sẻ với con người một tình bạn. “Đối với Đức Giêsu, khi gọi các môn đệ là bạn hữu, Người muốn chia sẻ cho các ông tất cả những gì kín ẩn, riêng tư nhất của lòng mình. Một tình bạn đích thực luôn là sự trao ban và chia sẻ. Thiết tưởng việc đồng hành cũng là thiết lập mối tương quan tình bạn như thế, tương quan giữa người đồng hành với người được đồng hành ; và đặc biệt là tương quan giữa người được đồng hành với Thiên Chúa”.[3]
Bầu trời càng lúc càng tối thêm nhưng lòng hai môn đệ lại bừng sáng. Ánh sáng của niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh. Dưới sự đồng hành và soi dẫn của Đức Giêsu, hai môn đệ đã được biến đổi. Một sự biến đổi âm thầm nhưng dứt khoát.
4. Kết quả sự đồng hành : Biến đổi
“Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn muốn đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng : “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”” (Lc 24, 28-29). Ban đầu Đức Giêsu là một người xa lạ chủ động đến gần và cùng đi với họ, kết thúc là họ nài nỉ Ngài ở lại cùng họ. Trong suốt quá trình đồng hành, Đức Giêsu đã tạo được niềm tin và sự thân mật đáng kể với hai môn đệ. Khoảng cách giữa Người với họ đã được rút ngắn một cách tự do. Hành động nài nỉ Đức Giêsu ở lại là dấu hiệu khởi đầu của một sự biến đổi. Từ chỗ bị nỗi thất vọng bao phủ, hai ông chỉ nghĩ đến những ưu tư lo lắng của bản thân, giờ đây lòng hai ông đã được sưởi ấm, hai ông đã bắt đầu quan tâm đến người khác. Nhờ lời mời đó, hai ông sẽ nhận được những mạc khải quan trọng hơn.
Thật vậy, trong lúc đồng bàn với họ, Đức Giêsu đã “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ”. Những hành động trên là chìa khóa mở cửa tâm trí các ông. Những tháng ngày ở bên Đức Giêsu, họ đã quá quen với những hành động : cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho mọi người. Có lẽ hai ông chưa hiểu ý nghĩa hiến tế trong những hành động trên nhưng nó đã trở nên quá quen thuộc. Chúa Giêsu đã dùng những hành động, những cử chỉ quen thuộc để nhắc nhớ họ sự hiện diện của chính Ngài. Thật đơn giản việc đức Giêsu nói với họ : chính Thầy đây. Nhưng như vậy liệu họ có tin ? Giả như họ tin thì đức tin đó có trưởng thành với đặc tính tự do đáp trả ! Đức Giêsu đã không chọn cách đó. Ngài thể hiện mình qua những hành động nhắc nhớ để tâm hồn hai ông tự nhận ra sự hiện diện của Thầy và tự đáp trả.
Khi nhận ra người bạn đồng hành chính là thầy Giêsu, họ đã hành động một cách dứt khoát và mau mắn : ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem. Đây quả là một kết quả tuyệt vời của sự đồng hành. Với sự hiện diện của mình, Đức Giêsu đã khiến hai môn đệ biến đổi một cách hoàn toàn. Họ không chần chừ, do dự, so đo hay tính toán, ngược lại họ ngay lập tức đứng dậy, trở về Giêrusalem. Ở đây có hai hình ảnh thật là trái ngược. Đoạn đường từ Giêrusalem về Emmau diễn ra vào ban ngày nhưng hai môn đệ lại bước đi với những bước chân não nề chán nản, ngược lại, cũng đoạn đường đó nhưng theo chiều ngược lại, diễn ra vào đêm tối nhưng hai ông lại hăng say cất bước băng đêm tối. Điều gì tạo nên sự khác biệt ấy ? Đó chính là nhờ kết quả sự hiện diện và đồng hành của Đức Giêsu phục sinh. Gặp Chúa phục sinh và ra đi làm chứng cho Ngài, đó là hai hành động kế tiếp nhau và gắn liền với nhau. Hành động sau là hệ quả của hành động trước. Đó là một hành động tự nguyện, một hành động đáp trả tiếng gọi từ bên trong. Thiết nghĩ mọi sự đồng hành đều phải đưa đến những kết quả tương tự.
5. Nhưng người lại biến mất
Sự đồng hành của Đức Giêsu đã đến đúng lúc và ra đi cũng đúng lúc. Thật vậy, trước kia Người nhận ra tâm trạng buồn sầu thất vọng của hai môn đệ nên đã đến đồng hành cùng. Giờ đây, khi sự đồng hành đã đến hồi kết thúc : hai môn đệ đã nhận ra sự hiện diện của chính Chúa, Người đã âm thầm rút lui “vô điều kiện”, tạo cơ hội cho hai ông tự do đáp trả. Người thực hiện vai trò dẫn dắt chứ không quyết định giùm. Người hướng dẫn và gợi mở để hai ông tự do quyết định hành động của mình. Đức Giêsu tôn trọng quyền tự do đáp trả của hai môn đệ.
Thực vậy, trong quá trình đồng hành, phải tránh tối đa mối tương qua kiểu quyền bính, để cho người được đồng hành thực sự tự do chọn lựa và quyết định. Người đồng hành không ra lệnh, không lấy quyết định giùm, nhưng hướng dẫn để người thụ hướng có thể bước đi trên chính đôi chân của mình mà đến với Thiên Chúa. Việc lắng nghe đích thực phải được mở rộng ra với chân trời tự do như thế.
Hơn nữa, “trong việc đồng hành thiêng liêng, cần phải đồng hành với Chúa Thánh Thần và trong Thánh Thần, nghĩa là người đồng hành phải nhận ra và giúp cho người thụ hướng nhận ra Thánh Thần đang hoạt động trong họ, để họ ngoan ngoãn bước theo đường lối Thánh Thần hướng dẫn, và can đảm thực thi thánh ý Chúa. Như vậy, Thánh Thần đồng hành bằng cách vừa làm cho người môn đệ tiến bước, vừa soi sáng và thúc đẩy người môn đệ hành động”.[4]
6. Chúa Giêsu mời gọi ta đồng hành cùng nhân loại
Qua câu chuyện trên đường Emmau, Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta dấn thân đồng hành cùng nhân loại. Thực vậy, “đồng hành thiêng liêng không chỉ là một đặc quyền của giáo sĩ hay tu sĩ. Đây đúng hơn là một đặc sủng được dành cho mọi người, một chức vụ mà bất cứ người Kitô hữu nào đều có thể thi hành. Thật vậy, nên coi xứ mạng đồng hành thiêng liêng như là một sự bổ túc tự nhiên cho phép thanh tẩy”[5]. Hơn nữa, người đồng hành không phải là tác nhân chính. Họ chỉ là dụng cụ trong tay Thiên Chúa. Chính Chúa Thánh Thần mới là người hướng dẫn đích thực.
Xã hội ngày nay đang diễn ra với nhiều biến động. Toàn cầu hóa đã tạo ra một lớp người thất nghiệp. Họ đang vô vọng trong những bước đường tìm kế mưu sinh. Hiện đại hóa, thực dụng hóa đã tạo ra những con người mất niềm tin và phương hướng. Họ lạc lõng giữa cuộc đời mà không tìm được lối đi. Quanh họ chỉ toàn là những nẻo đường dẫn về emmau. Xã hội mở ra thì từng cá nhân đang khép kín dần. Cô đơn là căn bệnh trầm kha của xã hội hiện đại. Con người có thể đến với nhau qua những hào nhoáng bên ngoài nhưng bên trong họ vẫn là những khoảng trống lạnh lẽo. Hơn bao giờ hết, con người ngày nay đang rất cần người đồng hành. Nhất là trong lãnh vực thiêng liêng.
Bước theo Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi đồng hành cùng nhân loại. “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ”[6]./.
[1] Phạm Quốc Văn, Trên đường Emmau_một thoáng nhìn về đồng hành thiêng liêng, tủ sách chuyên đề, trang 83.
[2] Sđd trang 92.
[3] Sđd, trang 84.
[4] Sđd, trang 89.
[5] X André Louf, Ân sủng còn kỳ diệu hơn, sách dịch trang 44.
[6] Công đồng Vaticano II, Hiến chế mục vụ, số 1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét