Lênh đênh tìm con
chữ
Thực tình mà nói, tìm con
chữ vẫn là niềm vui của đa số các em nhưng hành trình của nó sao mà
lênh đênh quá. Cũng giống như bao trẻ em người Kinh khác, được mặc trên
người bộ quần áo đẹp, khoác trên vai chiếc cặp xinh xinh là niềm
hãnh diện của nhiều em nhỏ Barnah. Thế nhưng khi đến trường, ngoài
những trở ngại như bao em khác thì các em ở đây còn chịu một thiệt
thòi rất lớn, đó là vấn đề ngôn ngữ. Nếu may mắn gặp một cô giáo
Barnah, các em sẽ cảm được một sự gần gũi thân một rất tự nhiên,
nhưng nếu gặp một cô giáo ngươi Kinh, các em sẽ thấy một khoảng cách
vô hình, dù cho các cô đã cố xóa đi khoảng cách vô hình đó.
Đã vậy, hành trình đến với
môn toán và môn văn lại càng cam go hơn. Môn toán đòi hỏi một tư duy
trừu tượng, một lối tư duy vốn không phổ biến nơi người Barnah, một
sắc tộc thích lối tư duy cụ thể, chi tiết. Ở một thái cực khác, môn
văn đòi hỏi một sự gắn bó mang tính văn hóa và truyền thống, đòi
hỏi sự cảm nhận của cái đẹp về ngôn ngữ. Thế mà đối với các em,
tiếng Việt khác nào là một ngoại ngữ.
Nếu nói các em Barnah lười
học thì có lẽ không chính xác, bởi ngay từ bé, hầu như các em đều
thích thú với con chữ, có chăng là hành trình đến với con chữ của
các em qua lênh đênh. Các em phải đối diện với các trở ngại quá sớm.
Nếu là người đã đầy đủ ý thức, họ sẽ cố gắng vượt qua những trở
ngại để đạt đến mục đích. Đàng này các em còn trong tuổi ăn, tuổi
chơi. Khi gặp trở ngại, nếu không có sự động viên, can thiệp đúng
lúc, các em sẽ rất dễ bỏ cuộc để trở về với cuộc sống “an nhiên”
của mình.
Hành trình đến với con chữ
của các em vốn lênh đênh, nên các em cần lắm những tấm lòng quảng
đại của những người đi truyền cái chữ. Tuy thế, hành trình truyền
cái chữ cũng lênh đênh không kém!
Lênh đênh truyền con
chữ
Có thể nói, kiếm được một “chỗ đứng” trong ngành sư
phạm hiện nay là điều khó, thường tốn kém không ít. Vì thế, thầy cô
nào cũng háo hức hơn nếu được tiếp nhận một lớp người kinh, may ra
sau vài năm sẽ gỡ “lại vốn”. Còn nếu nhận được một lớp các em
người địa phương thì… chỉ còn biết trông cậy vào cái tâm lớn của
nhà giáo dục mà thôi.
Rất may, đa phần các thầy cô mà tôi có dịp tiếp xúc
trong thời gian qua vẫn còn cái tâm rất lớn. Xin phép thay mặt các em,
cám ơn các thầy cô! Thế nhưng, cái tâm của các thầy cô cũng phải
được thanh luyện qua nhiều thử thách.
Cảm hứng sư phạm và rào cản ngôn ngữ: kiến thức
chuyên môn và sư phạm cũng cần có môi trường thuận lợi để tiếp thêm
động lực và cảm hứng truyền đạt. Thế nhưng khác biệt ngôn ngữ một
lần nữa lại là rào cản khó khăn. Làm sao giải thích cho các em hiểu
ý niệm “căn bậc hai”, “lũy thừa”, v.v.. chỉ có cách là học vẹt, ngay
cả bảng cửu chương cũng thế. Mà vì học vẹt nên sau một kỳ nghĩ thì
mọi sự lại phải “khởi động” từ đầu. Thử tưởng tượng ta phải học
bảng cửu chương bằng tiếng Anh thì sẽ hiểu được khó khăn của các em
và nỗi khổ của giáo viên.
Đó là chưa kể đến rào cản sắc tộc. Các cô người Kinh
muốn gần gũi để hiểu và cảm thông với các em cũng như để được các
em tín nhiệm đòi hỏi thời gian và sự kiên trì. Mà một năm học thì
sẽ thoáng qua với biết bao là công việc!
Thêm nữa, trong khi phụ huynh người Kinh lo lắng việc
học cho con em mình nhiều khi quá đáng thì trái lại, phụ huynh người
bản địa thường bỏ ngỏ điều này. Số người biết lo cho con học trường
này, lớp nọ, cô kia là rất hiếm. Nếu gặp bố mẹ mà hỏi tại sao con
không đi học nữa thì câu trả lời đơn giản sẽ là “hi kuă - nó không
muốn”. Nó không muốn thì bố mẹ cũng chịu, không biết làm gì hơn dù
con chỉ mới học cấp 1.
Các em học tự lực là chính, anh chị nào khá hơn
thì còn biết chỉ cho em học chứ bố mẹ thì chịu. Các em cũng học
với tinh thần rất vô tư. Xong học ở lớp là về vất sách vở và chơi.
Chẳng mấy khi xem bài vở thêm ở nhà. Có vẻ như nhà trường cũng thất
bại trong việc này nên chẳng mấy trường cho các em bài tập làm ở
nhà. Nói chung, sự nghiệp truyền cái chữ vẫn còn lắm lênh đênh!
Lênh đênh dùng con
chữ
Biểu đồ học sinh ở các xứ người địa phương sẽ là
một hình kim tự tháp nhọn hoắt, bởi số lượng các em trụ lại đến
cấp 3 và sau phổ thông là rất hiếm. Các bạn này thật đáng trân
trọng và khuyến khích! Thế nhưng số phận lênh đênh của con chữ vẫn
chưa dừng lại. Với cái chữ mà các em và gia đình đã tốn bao nhiêu
công sức và tiền của, làm sao các em có thể dùng nó để nuôi sống
bản thân và gia đình?
Quả là vấn nạn nhức nhối và ray rứt cho những ai
quan tâm đến giáo dục! Điều này chắc cũng không cần phải nói nhiều
vì nó đã là quốc nạn! Một năm bao nhiêu sinh viên ra trường? Bao nhiêu
em có được việc làm đúng ngành nghề? Làm thế nào để xin việc đúng
nghành nghề mà không phải mất tiền?
Vấn nạn quá lớn, xin nhường lại cho những nhà hữu
trách. Ở đây xin nêu lên một băn khoăn: Nếu không dùng được thì học cho
lắm cái chữ để làm gì? Có người nói, những người có học hay học
nhiều thì cách cư xử, lối sống cũng sẽ khác hơn. Thế nhưng cũng có
một thực tế là những làng càng gần thành phố, càng học nhiều, lại
càng nhiễu nhiều tính xấu như đua đòi, trộm cắp, gia dối, v.v.. trong
khi những làng càng ở xa lại càng giữ được truyền thống văn hóa,
tính chân thành, đơn sơ!
Dĩ nhiên ta không phủ nhận lợi ích của cái chữ mang
lại nhưng vấn đề là làm thế nào để phát huy nó, để nó thực sự
hữu ích mà không phải trả một cái giá quá đắt. Song song với việc
nâng cao trình độ văn hóa, ta cần làm thêm điều gì nữa? Làm thế nào
để văn minh, văn hóa và nhân văn song hành cùng nhau? Đó có lẽ là vấn
nạn đang đặt ra cho anh chị em Đaminh chúng ta, những người đã chọn
lựa mảnh đất Tây nguyên này làm nơi dấn thân loan báo Tin Mừng sự
sống.