Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

GIÁNG SINH LÀ LỄ CỦA SỰ TIN TƯỞNG VÀ NIỀM HY VỌNG



Trong bài nói chuyện với các tín hữu và du khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư 18-12-2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: Hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy tư về lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu, ngày lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng, vượt thắng sự bất ổn và bi quan. Lý do của niềm hy vọng là vì: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Thiên Chúa Cha thật là quảng đại.
Thiên Chúa đến ở với loài người, lựa chọn trái đất để cùng sống với con người và để con người nhận ra Ngài trong những niềm vui và khổ đau của cuộc đời. Vì thế trái đất không còn là “thung lũng nước mắt” nữa, mà là nơi chính Thiên Chúa đã cắm lều của Ngài, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người và liên đới với con người.
Thiên Chúa đã muốn chia sẻ điều kiện làm người của chúng ta đến độ trở thành một với chúng ta trong con người của Đức Giêsu, là người thật và là Thiên Chúa thật. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người không được thực hiện trong một thế giới lý tưởng, tình tứ, nhưng trong thế giới thực sự này, một thế giới bị ghi dấu bởi các chia rẽ, gian ác, nghèo túng, các chuyên quyền và chiến tranh. Ngài đã lựa chọn ở trong lịch sử của chúng ta với tất cả gánh nặng của các hạn hẹp và các thảm cảnh của nó. Khi làm như thế Ngài đã chứng minh cho thấy lòng xót thương và tình yêu của Ngài đối với con người. Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ngay cả trong khổ đau và khốn khó của lịch sử.
Đức Thánh Cha định nghĩa lễ Giáng Sinh như sau: Lễ Giáng Sinh biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Giê-su: một năng lực giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim.
Từ việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta có thể rút tỉa ra hai điều.

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2013

ƠN GỌI NGÔN SỨ


Ngày 23 Tháng 12 (Lc 1,57-66.80)

Trở thành ngôn sứ là ơn gọi đặc biệt được chính Thiên Chúa tuyển chọn. Thiên Chúa đã từng phán với ngôn sứ Giêrêmia : “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi ; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1, 4-5). Lời Chúa phán trên cũng thật đúng cho trường hợp của Gioan Tẩy Giả.
Sự ra đời của Gioan Tẩy Giả đã gây thắc mắc cho nhiều người. Ai nghe thấy cũng đều để tâm suy niệm và tự hỏi : “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào ?” (Lc 3,16). Ba mươi năm sau, trong khi thi hành sứ vụ, người Dothái hỏi chính Gioan : “Ông là ai ?”, “Ông nói gì về chính mình ?”. Gioan đã trả lời : “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1,23). Gioan tự nhận mình là tiếng hô đi trước để chuẩn bị cho Lời sẽ đến sau. Cuộc đời Gioan sẽ là hình ảnh tuyệt hảo cho người ngôn sứ.
Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi. Gioan đến không phải để nói về mình nhưng để giới thiệu Đấng Cứu Thế. Gioan thi hành sứ vụ ngôn sứ không chỉ bằng lời nói nhưng với trọn vẹn cuộc sống. Trước khi ra mắt dân Israel, ông đã trải qua ba mươi năm sống một mình trong hoang địa. Khi rao giảng, dân chúng đến với ông rất đông nhưng ông tự nhận mình chỉ là tiếng hô đến dọn đường cho Đấng mà ông không đáng cởi quai dép. Khi nhận ra Đức Giêsu, Gioan không ngần ngại giới thiệu cho hai môn đệ thân tín để rồi hai môn đệ cũng bỏ Gioan mà theo Đức Giêsu. Cuối cùng, Gioan lấy chính mạng sống của mình để bảo vệ sự thật. Đó là số phận dành cho những ai sống trọn vẹn vai trò ngôn sứ của mình. Thế nhưng, cũng chính Gioan là người được Chúa Giêsu tuyên dương khi nói : “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gioan” (Lc 7,28).

Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2013

TIỀN HÔ CỦA CHÚA



Ngày 19-12: Lc 1,5-25

Thiên sứ nói với ông Da-ca-ri-a: “Em (Gio-an) sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.”

Thiên Chúa chu đáo chuẩn bị cho con người một kế hoạch. Thiên Chúa đến viếng thăm con người, đó là một sự kiện trọng đại, là tin vui cho tất cả mọi người, tin vui khỏa lấp bao mong mỏi đợi chờ. Để chuẩn bị cho ngày trọng đại này, Thiên Chúa đã chọn gọi một ngôn sứ, vị Tiền Hô của Người, đến để chuẩn bị lòng dân, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch quay về nẻo chính đường ngay. Sự xuất hiện của Gio-an như dòng nước thỏa mãn cơn khát của bao thế hệ. Lời mời gọi của ông đã mang lại hiễu quả. Người người xếp hàng nối đuôi nhau để xin lãnh phép rửa tỏ lòng sám hối ăn năn. Tiếc rằng không phải ai ai cũng sẵn sàng để đón Chúa.
Thiên Chúa đã chuẩn bị chương trình của Người thật chu đáo, thế nhưng khi Người đến “gõ cửa” thì con người lại chưa sẵn sàng “mở”. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà lại từ chối. Đó là thái độ không phải của con người cách đây hơn hai ngàn năm mà thôi nhưng còn là thái độ thường trực của con người thời nay. Mùa Vọng đã đi hơn nữa chặng đường nhưng mấy ai trong chúng ta đã dọn lòng cẩn thận để đón Chúa? Đó đây các hang đá được dựng lên và trang hoàng lộng lẫy nhưng mấy ai chuẩn bị cho Chúa một chỗ trong lòng mình?
Thời gian càng ngắn ngủi thì lời thúc bách càng ý nghĩa. Những ngày con lại của mùa Vọng là cơ hội để chúng ta từ bỏ những ngỗ nghịch của mình mà quay về nẻo chính đường ngay. Đây không chỉ là bổn phận của mỗi người chúng ta với Chúa mà thôi nhưng còn là trách nhiệm đối với người khác. Cách sống của chúng ta có là “cơ hội” để người khác cũng nhìn ra chuẩn bị đón chờ Chúa đến.
Xin Chúa cho con luôn ý thức về cách sống của mình để con cũng trở thành một Tiền hô của Chúa, một người đi trước để dọn dường cho Chúa đến trong lòng mỗi người.

CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ



1. Sứ điệp thứ nhất mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy vào sa mạc.
Vào sa mạc là sống với thiên nhiên, sống hòa hợp với đất trời, bảo vệ cây cỏ, dã thú. Trong nền văn minh tiêu thụ hiện nay, người ta khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không nghĩ đến tái tạo. Trong bối cảnh ấy, sứ điệp của Thánh Gioan Tiền Hô có giá trị như một thức tỉnh con người trước sức tàn phá của nền văn minh tiêu thụ.
Vào sa mạc là tìm nơi yên tĩnh mà nghỉ ngơi. Sứ điệp của Thánh Gioan Tiền Hô vượt lên trên những nhu cầu của xã hội, của sức khỏe để nhắm vào đời sống tâm linh con người. Vào sa mạc tâm linh, tức là tạo cho mình một thời gian và một không gian yên tĩnh. Dứt lìa những bận bịu lo toan trong cuộc sống để trở về với mình, đối diện với lòng mình.
Sa mạc không có đường đi. Nên người đi vào sa mạc sẽ đi theo con đường Chúa chỉ dẫn. Như xưa dân Do Thái lang thang 40 năm trong sa mạc, không biết đường đi, chỉ biết đi theo áng mây cột lửa nên đã tìm thấy đường đi về với Chúa, đã gặp được Chúa, đã thành Dân của Chúa. Cũng vậy, người vào sa mạc tâm linh sẽ gặp mình và trong sâu thẳm lòng mình sẽ gặp được Chúa. Vì Chúa còn thân thiết với ta hơn chính bản thân ta. Vì Chúa còn sâu xa hơn chính nội tâm ta.

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

TÔI ĐÃ ĐƯỢC CỨU

Chúa nhật 4 mùa vọng năm A (Mt 1, 18-24)

Ngày 18 tháng 12
“Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21)
A-đam, E-và phạm tội và phải lãnh nhận hậu quả của tội. Thay vì chiều chiều đi dạo với Thiên Chúa, ông bà không còn dám đối diện với Người. Thay vì vui vẻ đón nhận người trợ tá tương xứng, A-đam đổ lỗi cho E-và. Từ đây, A-đam phải cày sâu cuốc bẩm mới có của nuôi thân, còn E-và thì phải chịu đau đớn khi sinh con.
Thời gian đi qua và biết bao thảm kịch đã xảy ra: Ca-in giết em, tháp Ba-bel sụp đổ, lụt hồng thuỷ, …. Cứ thế con người trượt dài trên con dốc tội luỵ như là hậu quả của tội nguyên tổ. Con người chỉ còn biết gục đầu ăn năn, hai tay hướng lên trời mong tìm được ơn giải thoát.
Thực vậy, tội luỵ quá nặng nề nhưng không ai trong dòng dõi loài người có thể tự cứu chuộc lấy mình cũng như cứu chuộc người khác. Chỉ có Đấng được hứa ban từ trời mới có thể thực hiện công cuộc này. Và hôm nay, tin Đấng Cứu Độ xuống thế đã được chính thức loan đi: Bà sẽ sinh một con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21).

TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỜI TU: QUÀ TẶNG HAY ÂN SỦNG (3)

Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.
         3.    KHAO KHÁT VÀ NỖ LỰC CHIẾN ĐẤU
        Người tu sĩ phải khao khát và hăng hái kiếm tìm ân huệ của sự công chính Nước Trời ; ở giữa và cùng với dân Chúa, người tu sĩ phải nỗ để kín múc lấy ân sủng của sự trưởng thành tròn đầy nơi Đức Kitô.
         3.1.      Tầm quan trọng của khao khát
         Chúng ta phải nhấn mạnh đến tầm quan trọng của “khao khát”. Khao khát nghĩa là để ân sủng của Thiên Chúa quyến rũ mọi động lực cá nhân của chúng ta, để chúng ta chuyển động lực đó đến với ân sủng và để cho ân sủng dẫn dắt. Nuôi dưỡng những khát khao tốt là con đường đúng đắn nhất để đón nhận trải nghiệm của ân sủng. Những khát khao tốt được nuôi dưỡng bởi những ai không quên đi lời họ đã nghe được, và luôn chiêm niệm những ân sủng Chúa, đồng thời nỗ lực để không đánh mất sự chiêm ngắm những dấu vết của Thiên Chúa qua lịch sử. Trong phạm vi nào đó, khi ân sủng Thiên Chúa luôn được duy trì qua việc chiêm ngắm và thấu hiểu ; ở cùng phạm vi đó, thì ân sủng ấy được khát khao chiêm niệm sâu hơn. Khao khát đánh thức một tình yêu mãnh liệt. Khao khát làm cho lời cầu nguyện được thốt ra. Như thánh Âu-Tinh đã viết :

Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

BẢN GIA PHẢ NÓI LÊN LÒNG TRUNG TÍN CỦA THIÊN CHÚA

Ngày 17/12: Mt 1,1-17
1 Đây là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham:
2 Ông Áp-ra-ham sinh I-xa-ác ; I-xa-ác sinh Gia-cóp ; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em ông này; …
16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
17 Như thế, tính chung lại thì : từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời ; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời ; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.
Ngay từ khởi đầu lịch sử con người, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Độ. Suốt dòng lịch sử nhân loại, Thiên Chúa vẫn âm thầm chu đáo chuẩn bị một con đường, con đường dẫn đến Đấng Cứu Thế. Dù cho trong dòng lịch sử đó, con người thường xuyên phản bội, nhưng Thiên Chúa vẫn trung tín với lời hứa của Người. Dù cho lịch sử có những khúc quanh, nhưng Thiên Chúa đã biến những khúc quanh đó thành những cột mốc quan trọng của lịch sử. Điều đó không chỉ cho thấy quyền năng của Người, nhưng trên hết là tình thương và lòng nhân từ. Vì yêu thương, Người sẵn sàng tha thứ và giúp con người chữa lành những “vết thương”.
Thánh sử Matthêu, khởi đầu bản gia phả với Apraham, tổ phụ của dân tộc Do Thái, trong khi thánh Luca trình bày gia pha theo chiều ngược lại, khởi đầu từ Đức Giê-su và kết thúc là nguyên tổ A-đam. Tuy có khác nhau về cách trình bày, nhưng cả hai đều cho thấy sự ưu ái của Thiên Chúa. Thiên Chúa như Người cha chuẩn bị kỹ lưỡng cho hành trình của những đứa con. Một cái tên xuất hiện trong gia phả là một tác động của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ con người.
Ngày hôm nay, chắc hẳn Thiên Chúa vẫn là đấng trung tín và yêu thương con người. Người vẫn đang vạch ra một con đường cho chúng ta. Con đường dẫn dắt chúng ta đến quê trời. Không chỉ vạch ra con đường mà thôi, Người còn dẫn dắt chúng ta bước đi với nhiều ơn lành. Chúng ta không đơn độc trong hành trình này, bởi chúng ta đang cùng đi cùng Giáo hội và trong Giáo hội. Giáo hội có đầy đủ các phương tiện để trợ giúp chúng ta. Hơn nữa, Chúa còn mời gọi mỗi người trong chúng ta góp phần vào chương trình của Chúa để dẫn dắt người khác đến gặp Đấng Cứu Độ, giống như các nhân vật trong bản gia phả đã dẫn dắt ta đến với Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Lạy Chúa, Đấng Cứu Độ đã được ban cho chúng con. Người đã đến trong thân phận một con người, đã sẻ chia những buồn vui nhân thế để cảm thông với chúng con. Xin cho chúng con được chuẩn bị xứng đáng đến đến gặp Người.

Thứ Hai, 16 tháng 12, 2013

NHÌN NHẬN SỰ THẬT

Tuần 3 Mùa Vọng – thứ Hai (Mt 21,23-27)
25 Các thượng tế và kỳ mục nghĩ thầm : "Nếu mình nói : "Do Trời", thì ông ấy sẽ vặn lại : "Thế sao các ông lại không tin ông ấy ?" 26 Còn nếu mình nói : "Do người ta", thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an là một ngôn sứ." 27 Họ mới trả lời Đức Giê-su : "Chúng tôi không biết."
Chứng kiến những phép lạ lẫy lừng cũng như cách giảng dạy đầy uy quyền của Đức Giê-su, các thượng tế và kỳ mục, những người giữ vai trò lãnh đạo dân Israel đã đặt vấn đề: người này lấy quyền nào mà làm như vậy? Thực ra, trả lời câu hỏi này không phải là vấn đề khó! Trong lịch sử cứu độ, rao giảng Lời Chúa và làm các phép lạ là hành động chính yếu nơi các ngôn sứ của Thiên Chúa. Chưa có ai dùng quyền hành của ma quỷ để nói Lời Chúa và làm những việc cao cả lạ lùng đến thế. Như vậy, uy quyền của Đức Giê-su chỉ có thể đến từ Thiên Chúa.
Trong hành trình rao giảng và chữa lành, nhiều người đã tin và tuyên xưng điều này. Tiếc thay, đa số những người công khai tuyên xưng niềm xác tín của mình là những người nghèo khổ, bệnh tật, dân ngoại hay những tâm hồn bé mọn, đơn sơ. Họ là những người sẵn sàng mở rộng tâm hồn và con tim để đón nhận Đức Giê-su. Trong khi những người lãnh đạo dân, những thầy dạy tâm hồn lại lãnh đạm làm ngơ hay khép kín lòng mình.
“Chúng tôi không biết”, đó là câu trả lời trốn tránh trách nhiệm, trốn tránh lương tâm. Các ông trả lời không biết trong khi dân chúng ai cũng biết. Thực ra vấn đề của các ông không phải là biết hay không biết nhưng là biết sao để có lợi cho mình. Thay vì mở rộng tâm hồn để đón nhận mạc khải của Thiên Chúa thì các ông đóng kín để tính toán cho riêng mình. Vì mục đích đó, các ông sẵn sàng quay lưng lại với sự thật.
Sự thật chỉ được tỏ lộ cho những tâm hồn đơn sơ, luôn sẵn sàng mở rộng để đón nhận Thiên Chúa. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta biết sự thật nhưng làm ngơ như không biết. Chúng ta sợ sự thật và không dám nhìn nhận vì nó xem ra chẳng mang lại lợi ích gì cho ta. Thay vì phục vụ sự thật, chúng ta bắt sự thật phục vụ cho mình. Nếu không có ích lợi cho mình, chúng ta quay lưng chối từ.
Xin Chúa giúp con can đảm nhìn nhận sự thật để “sự thật giải thoát chúng con”.   

TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỜI TU: QUÀ TẶNG HAY ÂN SỦNG (2)

Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.

Thiên Chúa Cha đã mời gọi chúng ta hầu chúng ta có thể đạt đến sự trưởng thành tròn đầy trong Đức Kitô. Như nền tảng cho lời kêu gọi này khi đọc thư Ê-phê-xô 4, 13 :
            “Và chính Người đã “ban” ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô. Như vậy, chúng ta sẽ không còn là những trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi giạt theo mọi chiều gió đạo lý, giữa trò bịp bợm của những kẻ giảo quyệt khéo dùng mưu ma chước quỷ để làm cho kẻ khác lầm đường. Nhưng, sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái”(Ep 4, 11-16).

Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

THỬ THÁCH CỦA ĐỨC TIN (Mt 11, 2-11)

Chúa nhật 3 mùa vọng năm A 

 “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác” (Mt 11,3)
Mới hôm nào bên bờ sông Gio-đan, ông Gio-an dõng dạc tuyên bố: Đây là Chiên Thiên Chúa (x.Ga 1, 29) để giới thiệu Đức Giêsu, vậy mà hôm nay ông lại nghi ngờ chính bản thân mình. Vì sao lại có sự nghi ngờ này?
Gio-an Tẩy giả là ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Cái nhìn của ông về Đấng Mê-si-a cũng giống như của rất đông dân chúng thời đó. Nói chính xác hơn, họ mong muốn một Đấng Mê-si-a đầy uy quyền để lãnh đạo dân đập tan xiềng xích nô lệ, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của đế quốc Rô-ma: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 10). Vì thế những kẻ không biết sám hối sẽ phải hứng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống (Mt 3,7). Đấng Mê-si-a trong tâm trí Gio-an phải là vị thẩm phán đến để nhổ rụi cỏ lùng và đốt sạch ngay tức khắc! Thế nhưng những lời nói, việc làm và thái độ của Đức Giê-su không có gì cho thấy một sự vội vàng dứt khoát như vậy.

THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ

Ngày 14 tháng 12

Thánh Gioan Thánh Giá được tôn xưng là nhà thần bí lớn trong Giáo Hội. Khi còn sống, những tư tưởng về đời sống tâm linh đã được đúc kết bằng những khổ đau trong chính cuộc đời mình.
Cha ngài thuộc dòng dõi quí tộc, nhưng bị khai trừ vì cưới một thường dân làm vợ. Ông qua đời lúc ngài vừa sinh được vài tháng nên gia đình phải sống trong cảnh nghèo túng. Tuy vậy Gioan cũng đã được học hành đàng hoàng nhờ vừa đi làm vừa tự học. Đến năm 21 tuổi, ngài gia nhập Dòng Carmêlô.
Dòng Carmêlô ở Tây Ban Nha được ngưởng mộ vì thực hành một đời sống tâm linh sâu sắc, nghiêm túc giữ luật dòng và đời sống cầu nguyện. Nhưng vào thời kỳ của Gioan thì kỷ luật bị buông lỏng và tinh thần đạo đức sa sút. Gioan chịu chức linh mục năm 1567 và được giới thiệu với thánh Têrêxa Avila, đấng đang lãnh đạo phong trào cải tổ sâu rộng dòng Carmêlô.
Cả hai trở nên thân thiết vì có chung một chí hướng. Tinh thần cải tổ rất nguy hiểm trong thời kỳ có Pháp đình Tôn giáo, Cơ quan này sẵn sàng kết án những ai có tư tưởng không theo rập khuôn mẫu tôn giáo đã được ấn định vào thời bây giờ. Thánh Gioan là nạn nhân của anh em trong dòng. Vào năm 1577, thánh Gioan bị bắt cóc đem nhốt vào một phòng giam trong tu viện ở Toledo. Sau chín tháng bị giam cầm, Gioan đã trốn thoát được ra ngoài trong đêm tối.
Sau một thời gian, thánh Gioan được anh em mời trở về dòng nhưng những đau khổ vẫn mãi dồn dập. Gioan vẫn viết lên những lời thơ thần bí để lại cho hậu thế ngưỡng mộ. Gioan chết vào ngày 12 tháng 12 năm 1591 trong cô đơn sau một thời gian bị bệnh lâu dài.
Sự đau khổ đã nung nấu ý chí và tạo nên đời sống tâm linh huyền bí. Tác phẩm lớn là “Đêm tối tăm của linh hồn” được sáng tác với kinh nghiệm lúc bị giam ở Toledo. Gioan tả linh hồn như một người đang yêu trốn ra trong đêm tối đến hẹn hò với Nhân Tình. Đau khổ làm cho linh hồn tinh khiết như cây củi được đốt trong lò sưởi, lửa cháy làm tan nát và thiêu hủy cây củi nhưng tạo được ngọn lửa hồng trong sáng.
 Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Gioan linh mục lòng nhiệt thành yêu mến thánh giá và hoàn toàn từ bỏ chính mình. Xin cho chúng con hằng biết noi gương sáng của người để mai sau được chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển (Lời nguyện nhập lễ thánh Gioan thánh giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh ).
Tóm lược theo Phó Tế J.B. Huỳnh Mai Trác


ĐAU KHỔ CỦA NGƯỜI NGÔN SỨ

Tuần 2 Mùa Vọng – Thứ Bảy (Mt 17,10-13)

10 Các môn đệ hỏi Người rằng : "Vậy sao các kinh sư lại nói Ê-li-a phải đến trước ?" 11 Người đáp : "Ông Ê-li-a phải đến để chỉnh đốn mọi sự. 12 Nhưng Thầy nói cho anh em biết : ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế." 13 Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gio-an Tẩy Giả.
Dường như cuộc đời của người ngôn sứ luôn gắn liền với đau khổ. Cái đau khổ của họ là luôn hăng hái nhiệt tình nói lời của Chúa cho dân, chuyển tài tình yêu của người bằng những lời cảnh tỉnh lương tâm, mời gọi sám hối, canh tân lối sống để đẹp lòng Chúa hơn, thế nhưng kết cục là họ bị chính dân chúng ngược đãi. Còn gì đau đớn hơn khi chính những người mình yêu thương hướng dẫn lại quay lưng lại và bạc đãi mình? Một sự thật cay đắng! Tuy nhiên, cũng chính sự thật đó mà danh tiếng các ngài được lưu danh muôn đời.
I-sai-a là một tiên tri lớn, luôn nhiệt thành với lời Chúa và với dân, thế nhưng cuộc đời ông lại gặp phải sự chống đối từ vua A-kháp và nhất là hoàng hậu I-de-ven (x 1V 19,1-2). Cũng vậy, Gio-an Tẩy Giả đến loan báo thời đại của Thiên Chúa, chuẩn bị lòng dân đón đợi Đấng Cứu Thế mà bao lâu nay họ vẫn hằng mong đợi. Thế những cuộc sống trần gian của ông lại kết thúc trong tù, dưới sự phán quyết của vua Hê-rô-đê và hoàng hậu Hê-rô-đi-a. Đó là nét tương đồng giữa cuộc đời hai vị ngôn sứ lớn và cũng là tiên báo cuộc đời Đức Giê-su, Vị Ngôn Sứ Vĩ Đại.
Cuộc đời của mỗi Ki-tô hữu chúng ta cũng gắn liền với sứ vụ ngôn sứ. Qua bí tích Thanh Tẩy, chúng ta đón nhận ba sứ vụ của Đức Giê-su. Chúng ta đã bao giờ chịu đau khổ vì sứ vụ này chưa? Chúng ta đã bao giờ thao thức, trăn trở để nói lên Lời của Thiên Chúa, để cảnh tỉnh con người, để mời gọi người khác hoán cải và canh tân, để chuyển thông tình yêu Thiên Chúa cho người bên cạnh? Chu toàn sứ vụ này không bao giờ là điều dễ dàng. Vất vả, chống đối, đau khổ và cả hy sinh tính mạng là những điềm được tiên báo trước cho số phận của người ngôn sứ. Thế nhưng không vì thế mà ta nản chí sờn lòng. Nước Trời, điều mà các ngôn sứ rao giảng luôn là phần thưởng, là gia nghiệp không ai có thể lấy mất.

Lạy Chúa, mùa Vọng là thời gian hoán cải và canh tân đời sống. Lời Chúa hôm nay giúp chúng con nhìn lại cuộc sống mình để canh tân hầu xứng đáng đón đợi Chúa đến trong con mỗi ngày.

Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

CÁI TÔI (Mt 11,16-19)

Tuần 2 Mùa Vọng - Thứ Sáu

16 Tôi phải ví thế hệ này với ai ? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác, 17 và nói: "Tụi tôi thổi sáo cho các anh,/ mà các anh không nhảy múa;/ tụi tôi hát bài đưa đám,/ mà các anh không đấm ngực khóc than."
Con người được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa nhưng với sự khác biệt nhau. Mỗi người là một ngôi vị khác biệt với những nét độc đáo riêng. Đó là chưa kể sự khác biệt do hoàn cảnh lịch sử cá nhân và gia đình. Thế nhưng chính qua sự khác biệt đó mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống mối tương quan liên vị. Sống tương quan ngôi vị chính là cách thể thể hiện hình ảnh Thiên Chúa qua nơi bản thân mình.
Để sống mối tương quan này tốt đẹp, ta cần nhìn nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau, những khác biệt đôi khi đến mức đối lập. Thế nhưng chính sự khác biệt đó lại cho thấy sự tự do và riêng biệt của mỗi người. Tương quan không có nghĩa là bắt người khác phải theo ý mình nhưng là kết nối chính những khác biệt để xây dựng một cái gì đó chung cục và tốt đẹp nhất.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su ví thái độ của “thiên hạ” (mà cụ thể là người Pharisêu và đa số dân chúng thời đó) giống như của lũ trẻ con. Trẻ con hay tôn mình lên. Chúng xây dựng thế giới quanh cái tôi của mình. Chúng lấy mình làm trung tâm để bắt người khác quy hướng về. Nhiều khi thái độ trẻ con này vẫn ở mãi trong ta. Chúng không trưởng thành theo dòng thời gian cùng với sự phát triển toàn diện. Chúng ẩn nấp đâu đó để rồi khi có cơ hội chúng lại trỗi dậy, bày tỏ cái tôi của mình, nhiều khi còn quyết liệt và lộ liễu hơn khi còn bé. Cũng có thể chúng thể hiện ra một cách tinh vi hơn, khéo léo hơn, nhưng nền tảng của chúng thì đã cắm sâu trong cõi lòng.
Bắt người khác chiều theo ý mình là nguyên nhân sự đổ vỡ các mối tương quan. Khi đó, người ta không còn quan tâm đến nhu cầu của người khác. Sự hờ hững và vô tâm sẽ len lỏi vào. Chúng rúc rỉa dần lương tâm con người và đổ vỡ tương quan là hệ quả tất yếu.

Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn cất đi cái tôi của mình để nhìn thấy nhu cầu của người khác, có như vậy, mọi mối tương quan con xây dựng nên mới tồn tại và phát triển cách tốt đẹp. Sống tốt các mối tương quan cũng là cách thể bày tỏ hình ảnh Thiên Chúa cho mọi người.

NGÀY 13: KÍNH THÁNH NỮ LUCIA

Ngày 13 tháng 12 là Lễ kính Thánh Nữ Lucia, trinh nữ tử đạo, năm 304. Bạn biết gì về vị Thánh này ? Tại sao gương của Thánh nữ lại quan trọng ? Đây là vài lý do:
Thứ nhất, có biểu tượng về tên của bà. Chữ Lucia có gốc từ tiếng Latin, nghĩa là ánh sáng – “Lux” hoặc “Lucis”. Lucia là vị Thánh của Ánh Sáng trong Mùa Vọng, Mùa Ánh Sáng. Ánh Sáng Mùa Vọng xuất hiện trong thời gian tối tăm trong năm. Với công việc tốt lành, sự trong sạch và tình yêu dành cho người nghèo, Thánh Lucia đã tỏa sáng ánh sáng thật của Sự Sống.
Thứ nhì, Thánh Lucia đối lập với Luxiphe. Luxiphe vốn là thiên thần, là “người mang ánh sáng” nhưng đã rơi vào thung lũng bóng tối. Luxiphe là ánh sáng sai lầm, còn Thánh Lucia phản chiếu ánh sáng thật của Ngôi Lời, Ánh Sáng Đức Kitô trong thế giới tối tăm và trụy lạc. Thánh Phaolô nói rằng các Thánh chiếu sáng như những vì sao trong đêm tối. Luxiphe được gọi là “Sao Mai Sáng” nhưng ánh sáng đó đã trở thành bóng tối khi ánh sáng chói lói của các Thánh chiếu tỏa.
Thứ ba, Thánh Lucia là vị Thánh của Ánh Sáng nhưng bà cũng “bị mất ánh sáng”, tức là bị mù. Tại sao ? Hồi đó, Lucia là cô gái xinh đẹp, có một anh chàng ngoại giáo nói yêu đôi mắt đẹp của Lucia, thế là Thánh nữ móc mắt mình cho người đó vì muốn giữ mình trọn đời đồng trinh vì Nước Trời. Do đó, Thánh Lucia là bổn mạng của những người khiếm thị. Thánh Lucia nhắc nhở chúng ta phải luôn cố gắng bước đi trên “con đường ánh sáng”, nghĩa là Thánh Lucia đã trao ánh sáng cho chúng ta !
Thứ tư, Thánh Lucia từ chối kết hôn với người ngoại giáo. Thời đó, ngoại giáo bị coi là tà giáo. Người ngoại giáo đó có quyền hành, chức tước, địa vị, của cải... Làm vợ người đó thì tương lai tươi sáng và rộng mở, nhưng Thánh Lucia vẫn nhất quyết từ chối. Đó là điều không dễ đối với một cô gái đẹp còn trẻ, vì sự cám dỗ về vật chất rất mạnh mẽ.
Thật xứng đáng để chúng ta yêu mến Thánh Lucia, vì bà đã không chịu thỏa hiệp. Thánh Lucia là một thiếu nữ nhưng sống như một anh hùng, một chiến binh can đảm vì Đức Kitô. Thánh Lucia nhắc chúng ta rằng nếu chúng ta không cương quyết thì chúng ta sẽ không được vào Nước Trời.
Lạy Thánh Nữ Lucia, xin nguyện giúp cầu thay. Amen.
TRẦM THIÊN THU, chuyển ngữ từ Patheos.com


Thứ Năm, 12 tháng 12, 2013

THỜI KỲ ÂN PHÚC (Mt 11,11-15)

Tuần 2 Mùa Vọng - Thứ Năm

11 "Tôi nói thật với anh em : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đưa ông Gio-an ra làm bản lề để so sánh hai thời kỳ, thời kỳ của Cựu ước và Tân ước. Đức Giê-su khẳng định ông Gio-an chính là Ê-li-a, người phải đến để dọn đường cho Đấng Mê-si-a như Cựu ước đã tiên báo. Điều này được Đức Giê-su khẳng định lại thêm một lần nữa với ba môn đệ sau biến cố biến hình trên núi (x Mt 17,10-13). Với hình ảnh so sánh này, Đức Giê-su tự khẳng định Người chính là Đấng Mê-si-a đã được hứa ban. Cựu ước là thời kỳ để các ngôn sứ nói tiên tri nay đã chấm dứt. Mọi lời tiên báo đã được ứng nghiệm nơi bản thân Người. Người xuất hiện đã mở ra một thời đại ân phúc, thời của Vương quyền Thiên Chúa. Trong vương quyền đó, kẻ bé nhỏ nhất còn cao trọng hơn ông Gio-an, dù cho Gio-an là người cao trọng nhất trong số những phàm nhân đã lọt lòng mẹ nhưng dù sao ông vẫn thuộc về thế hệ cũ. Một thế hệ mà người ta dựa vào Lề Luật để sống hơn là dựa vào ân sủng Thiên Chúa.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời kỳ ân phúc đó. Thời kỳ mà nhờ ân phúc của cái chết và sự phục sinh của Đức Giê-su, chúng ta được thánh hóa, được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su để làm chứng cho Người trên kắp cùng thế giới. Thế nhưng chúng ta có ý thức điều này không? Chúng ta đón nhận và sống ân phúc đó như thế nào? Chúng ta có để cho những ân phúc đó sinh hoa trái trong cuộc sống hằng ngày?
Dù là thời ký ân phúc, Đức Giê-su cũng xác định từ này Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh. Chỉ có ai mạnh sức mới chiếm được. Không phải chúng ta sống trong thời kỳ này là đương nhiên có được một vị trí trong Vương quốc Thiên Chúa. Nước Trời đòi hỏi mỗi người chúng ta phải chiến đấu hàng ngày, chiến đấu với những ham muốn xác thịt, với những đam mê trần tục, với những lựa chọn dễ dãi, nuông chiều bản thân; chiến đấu chống lại gian dối bất công. Với sức mạnh này, chúng ta không chỉ bảo đảm cho mình một chỗ trong Nước trời nhưng còn để góp phần xây dựng và mở mang nước đó ngay nơi trần gian này.

Xin Chúa cho con thêm sức mạnh để chiến đấu với xác tín rằng con không đơn độc trong cuộc chiến này nhưng luôn có ân sủng Chúa phù trợ con.

Thứ Ba, 10 tháng 12, 2013

TRƯỞNG THÀNH TRONG ĐỜI TU: QUÀ TẶNG HAY ÂN SỦNG (1)



Lớp Tập Tôma thiện (O.P.) chuyển ngữ từ tác phẩm “Conformity with Jesus”, Spiritual Itinerary of Religious của tác giả Joseù Cristo Rey García Paredes, CMF.



1.   TÂM LINH NHƯ MỘT HÀNH TRÌNH : ÂN SỦNG VÀ DẤN THÂN
Cái chìa khóa mà người tu sĩ chúng ta phải nắm bắt và theo đuổi tiến trình đời tu của mình cách tích cực chính là một ân sủng ưu việt, đòi chúng ta phải mở lòng mình ra qua hai cách đáp trảnghe theo.
“Hành trình tâm linh” của một tu sĩ là kết quả tuyệt vời của cuộc đối thoại trong tự do từ cả hai phía : Thiên Chúa và con người. Điều này có thể được giải thích theo những thuật ngữ trong hai khung cảnh Tin Mừng liên quan đến Phê-rô : Đầu tiên là việc thoát khỏi tù cách lạ thường (x. Cv 12, 1-11) ; thứ đến là nỗ lực của ông đi trên mặt biển hồ Ga-li-lê (x. Mt 14, 25-32).
1.1.      Hai khung cảnh Tin Mừng
khung cảnh đầu tiên chúng ta biết Phê-rô đang ở tù. Thiên sứ của Chúa đánh thức ông, giải thoát ông khỏi xiềng xích, mở mọi cửa nẻo cho ông, và cả cổng thành. Phê-rô được trao tặng con đường toàn vẹn dẫn đến tự do. Đây được xem như là món quà tinh tuyền mà Phê-rô nhận được. Thiên sứ chỉ cho ông cơ hội tuyệt vời này bằng những từ ngữ mang tính mệnh lệnh sau : “đứng dậy mau đi…, mặc quần áo vào…, xỏ dép vào…, khoác áo choàng vào…, đi theo tôi !”. Điều duy nhất đòi nơi Phê-rô là hãy đặt niềm tin vào người báo cho ông sự giải thoát, và ông phải có ước muốn được giải thoát mạnh mẽ. Phê-rô sẽ phải cất bước hướng đến tự do, được thúc đẩy bởi niềm tin, và tín thác rằng sự giải thoát sẽ được tỏ lộ khi ông vượt qua mọi thử thách có thể xảy ra trong hành trình đạt đến mục tiêu. Và thực ra, Phê-rô đã chấp nhận mọi rủi ro, đã tín thác vào Người ban cho ông cơ hội thoát khỏi ngục tù nhờ vào sự tín thác của ông.

CON CHIÊN LẠC (Mt 18,12-14)

Tuần 2 mùa Vọng – Thứ Ba

12 "Anh em nghĩ sao ? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? 13 Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. 14 Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.

Con người được tạo dựng và ở trong vườn địa đàng để vui sống trong tình yêu Thiên Chúa, thế nhưng ngay từ đầu, con người đã chiều theo khuynh hướng đi hoang của mình. Ông bà nguyên tổ đã bất tuân để đi ra khỏi vườn địa đàng, chạy xa khỏi vòng tay yêu thương của Đấng Tạo Hóa. Con người ngỡ rằng mình đi hoang để tìm được hoa thơm cỏ lạ nhưng rốt cuộc chỉ là gai góc xót xa.
Thiên Chúa yêu thương không đành lòng nhìn con cái mình mãi bước trong lầm lạc. Người đã cất bước lên đường, khởi đầu hành trình cứu độ. Lịch sử cứu độ là lịch sử đi tìm con chiên lạc. Thiên Chúa tìm thấy con chiên lạc, âu yếm đặt chúng lên vai vác về, nhưng rồi đâu lại vào đó, con người lại quen bước ra đi. Những bước chân ra đi và trở về đã tạo nên hành trình cứu độ. Đó là hành trình của những con chiên lạc và của Thiên Chúa yêu thương.
Lời tâm sự của thánh Augustin có lẽ cũng là lời xét mình cho mỗi chúng ta. Thiên Chúa đang chờ đợi con trong chính cõi lòng mình nhưng con lại mãi mê tìm Chúa bên ngoài. Hay như thánh Phaolô đã cảnh báo: Chúa của chúng ta là cái bụng. Do đó chúng ta mãi mê tìm Chúa trong những thú vui trần thế: nào là tiền bạc, danh lợi, quyền lực; nào là những bận tâm lo âu tầm thường. Chúng ta để cho những lo toan cuộc sống choán đầy tâm trí; chúng ta để cho những mối lo sợ lấn át; chúng ta để cho nỗi thất vọng len lõi. Rốt cuộc, chúng ta vẫn mãi bước những bước chân lầm lạc trong khi Thiên Chúa vẫn mãi đi tìm.
Mùa Vọng là thời gian Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta dừng những bước lầm lạc để chờ đợi và đón gặp Thiên Chúa. Chúa đã đến trần gian và Người sẽ còn đến một lần nữa. Chúa không muốn để lạc mất một con chiên nào! Chúa sẽ tạo mọi cơ hội cho mỗi người chúng ta bước trở về. Nếu chúng ta không tận dụng cơ hội thì chính chúng ta đã chủ động bước ra khỏi tình yêu của Người.
Lạy Chúa, xin cho con luôn ý thức Chúa đang mời gọi và tạo cơ hội cho chúng con trở về với Chúa. Tình thương Chúa luôn rộng mở để ốm ấp chúng con vào lòng như người mục tử vui mừng ôm ấp con chiên lạc. Xin cho chúng con biết quay đầu trở về cùng Chúa.



Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

MÙA VỌNG LÀ GÌ?



Trong tiếng Việt, vọng có nghĩa là “mong chờ”. Như vậy, mùa Vọng được hiểu là mùa mong chờ Chúa đến. Tuy nhiên, trong tiếng La tinh, mùa Vọng là Adventus có nghĩa là “đến”. Như vậy đây là mùa Chúa đến. Việc Chúa đến được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất nhắc lại biến cố Chúa Nhập thể cách đây hơn 2000 năm, nghĩa thứ hai được hiểu là việc Chúa đến trong thời cánh chung.
Với hai ý nghĩa này, các bài đọc Sách Thánh trong các Chúa nhật mùa Vọng được chọn để làm nổi bật cả hai chủ đề này. Các bài đọc của Chúa nhật thứ nhất đề cập đến việc Chúa đến trong biến cố quang lâm và mời gọi mọi người chuẩn bị sẵn sàng cho biến cố đó. Các bài đọc của các Chúa nhật còn lại giới thiệu mẫu gương của những người sẵn sàng đón chờ Chúa Cứu Thế như Gio-an Tẩy Giả (Chúa nhật thứ 2 và 3) hay Đức Ma-ri-a (Chúa nhật thứ 4).
Cũng vậy, mùa Vọng được chia làm hai phần với móc phân chia là ngày 17/12. Phần thứ hai, từ là một tuần trước áp lễ Giáng Sinh, các bài đọc thường trích từ “Tin Mừng thời niên thiếu” hoặc là đề cập trực tiếp đến biến cố truyền tin. Điều đó cho thấy phụng vụ trong thời gian này được chọn lựa với mục tiêu chuẩn bị cho lễ giáng sinh đã gần kề.
Như vậy, mùa Vọng (Adventus) là mùa hướng lòng về ngày Chúa Kitô sẽ lại đến trong vinh quang để xét xử thế giới và con người, nhưng gần hơn cả là chuẩn bị tâm hồn và đời sống để mừng mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh. Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta nhìn lên Chúa, Đấng đang đến với chúng ta mỗi giây phút và một cách đặc biệt khi ‘Người sẽ lại đến trong vinh quang’.
Tài liệu tham khảo
Phan tấn Thành, O.P. Hiểu để sống đức tin, tập 1

TÍN ĐIỀU VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI



Dẫn nhập
Nếu như hai tín điều đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và Trọn Đời Đồng Trinh được Giáo hội tuyên xưng từ rất sớm (vào thế kỷ thứ IV), thì hai tín điều Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội và hồn xác lên trời mới được Giáo hội tuyên xưng vào thế kỷ XIX và XX. Điều đó không có nghĩa là hai tín điều này mới được mạc khải nhưng vì Giáo hội cần một thời gian suy tư dưới sự soi sáng của Chúa Thánh thần mới có thể hiểu nội dung súc tích của các tín điều này.
Lịch sử hình thành tín điều[1]
Ngay từ thời các giáo phụ, người ta đã ghi nhận sự thánh thiện của đức Maria nhưng không mấy ai đặt vần đề đức Maria thánh thiện (được khỏi tội) từ lúc nào. Thánh Anselmô là người khởi đầu cho những cuộc khảo luận thần học về đức Maria vô nhiễm. Ngài nêu lên vấn nạn: nếu đức Maria được sạch tội ngay từ lúc thụ thai thì hóa ra người không cần đến ơn cứu chuộc hay sao? Và rồi ngài trả lời rằng đức Maria được hoàn toàn cứu chuộc ngay từ trước khi sinh ra. Tuy nhiên không phải tất cả các nhà thần học đều đồng ý với lập luận ấy vì những vấn nạn về ơn cứu chuộc. Gulielmô de Ware và Gioan Scôtô giải quyết vấn nạn bằng cách phân biệt giữa ơn thánh “rào đón” và ơn thánh “chữa trị”. Cả hai đều là hiệu quả ơn cứu chuộc của Đức Kitô nhưng đức Maria được ơn “dự phòng”, nghĩa là người được giữ gìn khỏi tội vì nhắm thấy trước những công nghiệp của đức Kitô. Vào năm 1661, đức Giáo hoàng Alexandrô VII cho rằng đạo lý đã có tính cách phổ quát và cấm nói ngược lại. Vào năm 1849 sau khi tham khảo ý kiến của tất cả các Giám mục hoàn cầu, tín điều đức Mẹ vô nhiễm đã được công bố ngày 8/12/1854.[2]

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2013

SỨ VỤ MỤC TỬ (Mt 9,35-10,1.6-8)

Tuần I Mùa Vọng - Thứ Bảy

36 Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. 37 Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng : Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. 38 Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về."
10 1 Rồi Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.8 …Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.
Hình ảnh đám đông bơ vơ vất vưởng không người chăn dắt gợi nhớ đến một hình ảnh trong sách Êdêkien chương 34, nơi mô tả một đàn chiên tan tác vì mục tử chỉ biết bản thân mình chứ không chăm lo cho đàn chiên. Trong bối cảnh đó, Thiên Chúa hứa ban một vị mục tử nhân lành, người ssẵn sàng hy sinh bản thân mình để bảo vệ đàn chiên khỏi sói dữ đang gầm gừ đêm ngày. Hình ảnh Đức Giê-su “chạnh lòng thương” chính là hình ảnh vị mục tử nhân lành đã được hứa ban.
Người chăm lo cho đàn chiên bằng cách giảng dạy, loan báo tin vui, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, thắp lên niềm hy vọng. Không chỉ vậy, người còn tuyển chọn các môn đệ và ban cho các ông quyền chữa lành mọi bệnh tật cũng như khử trừ ma quỷ. Nhiệm vụ của các ông cũng là rao giảng Nước Trời đã gần đến. Như vậy, các ông được mời gọi cộng tác với Đức Giê-su trong sứ vụ chăm lo cho đàn chiên, cả phương diện giảng dạy cũng như chữa lành. Sự vụ của các ông không khác với sứ vụ của Đức Giê-su chỉ có quyền năng là các ông lãnh nhận từ Đức Giê-su. Các ông ra đi nhân danh Đức Giê-su. Các ông đã được cho không thì các ông cũng phải cho không. Các ông không lãnh nhận chỉ để giữ cho riêng mình. Vì sứ vụ mà các ông đã được ban cho. Các ông còn được mời gọi cầu nguyện để Cha trên trời ban cho nhiều thợ gặt khác nữa vì cánh đồng lúa chín thì nhiều.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi cộng tác vào sứ vụ của Đức Giê-su. Chúng ta cũng lãnh nhận được nhiều ơn lành từ Thiên Chúa. Những ơn đó không được để trở nên vô hiệu nhưng phải được sử dụng để sinh thêm nhiều hoa trái. Cánh đồng lúa vẫn bát ngát mênh mong, nhiều đàn chiên Chúa vẫn đang bơ vơ thiếu người chăm sóc. Lời mời gọi cộng tác của Đức Giê-su trở nên tha thiết hơn bao giờ hết.

Xin Chúa cho Giáo hội ngày càng có nhiều thợ gặt lành nghề trong cánh đồng truyền giáo để đến mùa gặt, những bó lúa vàng trĩu hạt được gặt về cho Chúa. Xin cho đàn chiên Chúa luôn được các mục tử chăm sóc giữ gìn khỏi mọi cạm bẩy và luôn an vui với những đồng cỏ xanh tươi.