Theo sử liệu, các vị
thừa sai đã đến Việt Nam từ năm 1533 nhưng khoảng 40 năm sau mới có tín hữu đầu
tiên là cụ Đỗ Hưng Viễn (Thanh Hóa). Sau giai đoạn thăm dò của nhiều nhóm thừa
sai khác nhau thì khoảng giữa đầu thế kỷ XVII (1615-1659) là giai đoạn đặt nền
móng của dòng Tên. Trong giai đoạn này, số tín hữu Việt Nam không ngừng gia
tăng về số lượng cũng như những sinh hoạt khác, góp phần xây dựng một Giáo hội
sinh động về nhiều mặt.
Đạo đức trong nếp sống
Nếp sống đạo đức của
tín hữu Việt Nam trong giai đoạn này được nhìn nhận qua thư từ cũng như báo cáo
của các thừa sai gửi về cho Bề Trên hay cho Rôma. Qua đó ta có thể ghi nhận vài
ý chính sau.
Ngày 12-10-1647, sau
khi đi kinh lý giáo đoàn Đàng Ngoài, cha Gioan Cabral đã báo cáo về Rôma như
sau: Người dân Đàng Ngoài tòng giáo chỉ vì phần rỗi linh hồn; họ từ bỏ nếp sống
cũ, đến nỗi như trước đây họ chưa theo tôn giáo nào; Bổn đạo Đàng Ngoài yêu
thương nhau như anh em.[1]
Một báo cáo khác đề ngày 2-11-1647, cha Cabral viết: đến xứ
này con thấy giáo đoàn luôn luôn tăng trưởng về số lượng và lòng sốt sắng.
Trong cõi phương Đông, chẳng dân tộc nào có những điều kiện thích hợp với Ki-tô
giáo như dân tộc Đàng Ngoài. Đó là một dân tộc đơn sơ, không vướng mắc những tật
xấu xa. Một khi đã được rửa tội, người Đàng Ngoài kiên trì trong đức tin. Họ gớm
ghét cực độ những tật xấu thường có ở các dân tộc khác và họ mau mắn giữ luật
chúa.[2]
Còn cha Gioan
Barbosa thì ca tụng lòng nhiệt thành đạo đức của tín hữu Đàng Ngoài giống như
các tập sinh trong một Dòng tu. Cha nhận định về người tín hữu như sau: Họ siêng
năng đọc kinh chung sáng tối trong gia đình. Gia đình nào cũng có bàn thờ. Trên
bàn thờ ngoài thánh giá và các ảnh tượng còn có bình nước thánh, cùng với tràng
hạt Mân Côi, roi đánh tội. Một việc đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là họ có những
“bàn thờ nhỏ di động” mang theo mình khi phải xa nhà.[3]
Cha Đắc Lộ còn khen ngợi lòng đạo và tâm hồn trong trắng của tín hữu Đàng
Ngoài như các thiên thần. Trước ngày rước lễ, họ ăn chay đánh tội. Họ tham dự
Thánh lễ sốt sắng. Đặc biệt ngày Chúa nhật, họ đến nhà thờ từ sáng sớm nếu ở xa
hơn thì phải đi lễ từ chiều thứ bảy.
Trong thời gian hai giáo sĩ Marques và Đắc Lộ bị quản thúc tại gia vào
tháng 5-1628, tín hữu Đàng Ngoài tập trung trong các nhà dân cùng nhau đọc kinh
bù lại Thánh lễ. Đọc kinh, xem lễ, xưng tội, rước Mình Thánh Chúa là những thứ
họ khao khát, dù về mặt thông hiểu “lẽ đạo” thì còn kém. Các tín hữu đã sống Lời Chúa trọn vẹn
trong việc kính Chúa yêu người, bằng cớ là nhiều nhà truyền giáo đã khen ngợi về
lòng thương yêu nhau của anh chị em tín hữu. Trong bản báo cáo của cha Gaspar
d’Amaral gửi cha André Palmeiro ở Macao đề ngày 31-12-1632 đã
ghi nhận rằng “người lương dân gọi bổn đạo là những người theo đạo yêu
nhau”.[4]
Lòng đạo đức của tín hữu Đàng Trong cũng không thua kém ở Đàng Ngoài. Đặc
biệt, nhà nguyện của bà Maria Minh Đức Vương Thái Phi là nơi bảo đảm cho tín hữu
trong thời khó khăn. Nơi đây tín hữu ngày đêm kéo đến gặp các cha đễ lãnh nhận
các bí tích. Thánh lễ nào cũng chật người. Những ngày lễ trọng, các cha phải
dâng nhiều thánh lễ để mọi người được tham dự.
Sống động trong chứng
tá
Tuy còn trong giai đoạn đặt nền móng nhưng người tín hữu Việt
Nam cũng đã để lại những chứng tá sống động, đặc biệt là bằng lời nói qua việc
rao giảng và bằng việc làm qua đời sống bác ái yêu thương. Đặc biệt, chính
trong thời gian các cha bị quản thúc thì số người được rửa tội lại trổi vượt
hơn. Đó là nhờ tinh thần hoạt động rao giảng và tông đồ của giáo dân.
Trong bản báo cáo của
cha Cardim được ấn hành năm 1646 tại Paris, cha ghi nhận một trong các lý do
làm cho dân Đàng Ngoài dễ theo đạo là: Một người vừa “chịu đạo”, liền tỏ ra rất
nhiệt thành, đi khắp các làng mạc, truyền bá đạo mới cho đồng bào, nhất là cho
bà con thân thích.
Cụ thể, trong thời gian cha Đắc Lộ ở An Vực năm 1627, một người
phong cùi được ngài rửa tội lấy tên thánh là Simon. Vì khá thành thạo chữ Hán,
nên ông tình nguyện chép lại để học các kinh do cha Đắc Lộ trực tiếp đọc, sau
đó ông dạy lại cho các bệnh nhân trong nhóm. Từ làng An Vực, đạo nhanh chóng được
truyền sang các làng xung quanh. Mỗi giáo dân trở thành một chiến sĩ của đạo
qua lời nói cũng như tinh thần bác ái.[5]
Cha Đắc Lộ còn kể về
một người chị em với chúa Trịnh Tráng nhận lãnh bí tích rửa tội (1627-1628 ) với
tên thánh Catarina. Bà là người có một đức tin mạnh mẽ. Với lòng đạo đức và sốt
sắng, bà đã thuyết phục mẹ mình theo đạo và hai mẹ con đã giảng dạy và thuyết
phục được nhiều bà quý phái khác theo đạo. Ngoài ra còn rất nhiều chứng nhân
khác sau khi biết Chúa đã mạnh dạn nói cho người khác nghe, chẳng hạn như: Bà
Anna đã làm cho chồng mình là viên quan cai trị Xứ Đông (vùng Hải Dương) theo đạo,
chẳng những thế mỗi lần về kinh đô thay cho chồng lo một số việc, bà luôn dẫn về
một số người sẵn sàng chịu phép Thánh Tẩy; hay cậu Linô 17 tuổi, sau khi theo đạo
cũng làm cho chính cha nuôi là một võ quan cùng mọi người trong nhà quan được rửa
tội.[6]
Trong khi đó ở Đàng
Trong có bà Minh Đức Vương Thái Phi là người rất sùng đạo. Từ khi theo đạo, bà
dùng uy tín của mình mà nâng đỡ bổn đạo, che chở các nhà truyền giáo khi gặp
khó khăn. Chính cha Đắc Lộ đã viết về bà như sau: Bà Maria Madalena (tên thánh
của bà) là chỗ nương tựa của tín hữu; gương sáng và uy tín của bà đã làm cho
nhiều người lương dân cải đạo cách lạ lùng, và sau khi chịu phép rửa, nhờ bà, họ
giữ vững lòng đạo đức… Ngoài ra bà còn thuyết phục nhiều người nổi tiếng khắp nước theo đạo Chúa,
trong số này có cả những người thuộc vương tộc.
Trong số các người
thuộc vương tộc theo đạo có công chúa Ngọc Liên. Khi chồng qua đời 1645, công
chúa đến ở Hội An. Tại đây, chẳng những Ngọc Liên lo truyền giáo trực tiếp mà
còn lập nhà thương xót (gọi tắt là nhà thương), là nơi nương náu cho những người
nghèo khổ, neo đơn; đằng khác công chúa còn cung cấp lương thực cho 12 thầy giảng
lúc đó.[7]
Tóm lại, một khi đã
gia nhập đạo, người tín hữu thường cũng trở thành một nhà truyền giáo. Họ trở về
giảng đạo cho gia đình, họ hàng và làng xóm. Có những người bỏ cả nghề của mình
để chuyên lo việc giảng đạo. Đồng thời với chứng tá bác ái, đặc biệt là việc mở
nhà thương, việc tổ chức an táng, giỗ chạp long trọng đã làm cho nhiều người cảm
mến đạo mới mà theo.
Nhiệt thành trong cộng
tác
Không những có đời sống đạo đức và chứng tá sống động, các tín
hữu lúc bấy giờ còn nhiệt tình cộng tác với các thừa sai như giúp các ngài học
ngôn ngữ, đồng hành trong các hành trình truyền giáo, dâng đất làm nhà thờ, dịch
tài liệu và sáng tác các bài giáo lý bằng thơ ca.
Sau khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, nhiều người muốn theo
các cha để phục vụ trong hành trình truyền giáo. Chẳng hạn như cậu Augustin,
sau khi được cha Buzomi rửa tội đã tình nguyện ở lại và sau trở thành thầy giảng
đầu tiên ở xứ Nam. Với lòng nhiệt thành, các tân tòng giúp các cha dịch nhiều tài
liệu từ chữ hán ra chữ nôm như sách giáo lý của cha Pina.
Trong số những người theo đạo ở Quãng Nam, có nhiều người thuộc
giới trí thức như các cụ nghè Giuse, Phêrô, Phaolô, và sư cụ Manuel. Các cụ hỗ
trợ các cha nhiều trong việc học tiếng Việt. Đặc biệt, cụ Manuel là một sư cụ nổi
tiếng ở vùng Quãng Nam, sau khi theo đạo, cụ làm tờ tuyên ngôn cho dân chúng biết
vì sao cụ theo đạo, cụ rao giảng cho nhiều người và khuyên họ theo chính đạo. Với
lý lẽ đơn sơ, chân thành, cụ đã lôi cuốn được nhiều người trở lại. [8]
Về lòng nhiệt tình truyền giảng đạo của tín hữu, Cha Đắc Lộ viết
về thầy sãi Antôn như sau: thầy đã khôn
khéo và nhiệt thành dạy dỗ nhiều lương dân nhận đức tin… thầy làm chức vụ thầy
giảng và làm tông đồ, giảng dạy và công bố các mầu nhiệm đạo ta, lay động lương
tâm, thuyết phục các tâm hồn và tấn công ma quỷ. Thỉnh thoảng thầy đưa vài chục
người đến xin rửa tội.[9]
Cũng trong thời gian cha Đắc Lộ ở An Vực năm 1627, một ông cụ
85 tuổi, thông thạo chữ Hán, được dân chúng trong vùng kính trọng xin gia nhập
đạo và mang tên thánh là Gioakim. Tuy cao tuổi nhưng hằng ngày cụ có mặt trong nhà hai giáo sĩ để
trau giồi kiến thức về đạo. Từ đó cha Đắc Lộ thường xuyên nhờ cụ chép lại một số kinh trong đạo dành
cho người tân tòng. Ngoài ra cụ còn dâng cúng một miếng đất gần đó để làm một
nhà thờ. Dân chúng đóng góp vật liệu như tre, gỗ, còn các thương gia Bồ Đào Nha
góp công sức trang trí nhà thờ. Đây là ngôi nhà thờ đầu tiên ở Đàng Ngoài được
khánh thành ngày 3-5-1627 mang tước hiệu “Tìm thấy Thánh giá”.[10]
Khi theo đạo, người tín hữu Việt Nam sử dụng tất cả tài năng để
phục vụ đạo. Những tín hữu trí thức sử dụng khả năng tri thức để truyền đạo. Họ
viết thơ ca, vè, vãn về giáo lý, kinh thánh cũng như hạnh các thánh để đọc cũng
như để dạy giáo lý. Nổi tiếng nhất
trong lãnh vực này chính là bà Catarina, họ hàng với chúa Trịnh. Chẳng những mộ
mến đạo Chúa hết lòng, giảng đạo cho người chung quanh và đưa 17 người trong
vương tộc vào đạo, bà còn làm thơ giáo lý rất hay thuật lại từ việc Thiên Chúa
tạo thành vạn vật đến khi Chúa Giêsu sinh ra, rao giảng, chịu chết, phục sinh
và thăng thiên. Ở phần cuối, Catarina còn kể lại việc hai giáo sĩ Marques và Đắc
Lộ bắt đầu truyền giáo ở Đàng Ngoài. Nhờ các bài thơ, vè này mà anh chị em tân
tòng học thuộc giáo lý nhanh chóng. Cả đến một số đồng bào chưa theo đạo cũng sử
dụng vì loại văn thơ này rất thích hợp với họ.
Còn thầy Inhaxu thì thuyết phục lương dân bằng tài thơ ca của
mình: bằng giọng thơ lưu loát, cung giọng du dương, thầy chế nhạo và giễu cợt
các sai lầm và mê tín dị đoan. Nhờ đó, nhiều người đã bỏ dị đoan mà xin học
giáo lý.[11]
Ngoài ra, trong thời
kỳ hai giáo sĩ (Marques và Đắc Lộ) bị quản thúc năm 1629 tại Thăng Long, một nhóm tín hữu ở kinh đô có sáng kiến
in lịch Công giáo, ghi lại các ngày lễ Chúa Nhật, lễ trọng, ngày ăn chay trong
năm, để chẳng những tín hữu kinh đô dùng mà còn gửi đi khắp cả nước.[12]
Tóm lại, dù còn hạn chế nhiều mặt nhưng các tín hữu Việt Nam
đã nhiệt thành cộng tác với các thừa sai với tất cả khả năng của mình trong việc
dạy dỗ, rao giảng và làm chứng cho đạo thật.
Trưởng thành trong
trách nhiệm
Dù là một Giáo hội còn non trẻ về nhiều mặt nhưng người tín hữu
Việt Nam cũng đã cho thấy một sự trưởng thành, nhất là trong việc gánh lấy
trách nhiệm trên chính quê hương mình.
Hội thầy giảng được thành lập (1630 ở Đàng Ngoài và 1643 ở
Đàng Trong) là công lớn của các thừa sai dòng Tên, tuy nhiên các thầy đã cho thấy
sự trưởng thành trong trách nhiệm của mình qua việc cộng tác với các thừa sai.
Chẳng hạn như trong khoảng năm 1658- 1659, cả Đàng Ngoài chỉ có hai cha bị quản
thúc, thế nhưng nhờ nhiệt tâm của các thầy giảng và kẻ giảng, cũng như nhiệt
tâm của các tân tòng, với việc truyền bá Tin mừng, năm đó đã có khoảng 7000 người
được rửa tội.[13]
Trách nhiệm của các thầy còn là giúp các cha trong việc giảng
đạo, khuyên răn giáo dân, rửa tội, dạy giáo lý, chủ sự giờ kinh, thăm viếng người
bệnh, rửa tội khi các thừa sai vắng mặt. Là chỗ dựa tinh thần của giáo đoàn,
các thầy đã chu toàn rất tốt trách nhiệm của mình. Trong mười tháng vắng mặt
các thừa sai, ba thầy giảng ở Đàng Ngoài là phanxicô Đức, Anrê Trí và Ignatio
Nhuận đã rảo khắp các tỉnh thành dạy dỗ và rửa tội cho 3340 người, lập 20 họ đạo
và nhà thờ mới.[14]
Sự trưởng thành của
tín hữu Việt Nam còn thể hiện trong việc đứng ra lãnh trách nhiệm liên lạc trực
tiếp với đức thánh cha qua thư từ. Bằng chứng là ngày 15-7-1640 tín hữu Đàng
Trong đã dâng một tờ biểu lên đức thánh cha Urbanô VIII với nội dung là “cúi xin đức thánh cha ban phép cho thầy nào
trong số các thầy ở đây được làm phép thêm sức cho bổn đạo, để họ trở thành chiến
sĩ Chúa Kitô trọn vẹn hơn, hầu trung thành chiến đấu trong cuộc chiến Đức tin”.
Một tài liệu khác cho thấy tín hữu Đàng Ngoài cũng liên lạc trực tiếp với đức
thánh cha Urbanô VIII và cha Bề Trên dòng Tên Mutio Vitelleschi để xin các ngài
giúp đỡ cách nào để nhiều người trong nước được nhận biết và thờ phượng Thiên
Chúa.[15]
Kiên vững trong thử
thách
Giai đoạn đầu tiên
của Giáo hội Việt Nam cũng là giai đoạn chịu nhiều nghi kỵ, thử thách và bắt bớ.
Tuy vậy, các tín hữu luôn tỏ ra can trường trong việc làm chứng và tuyên xưng đức
tin dù chịu nhiều thiệt thòi, đòn roi và cả mạng sống.
Cụ thể như ông Từ ở
làng Vũ Xá gần Thăng Long, được một bà phi của chúa Trịnh Tráng giao bảo vệ từ
đường rất đẹp của bà. Khi nghe cha Đắc Lộ giảng, ông quyết từ bỏ việc trên đây
vì tham dự vào hành vi mê tín. Theo đạo, ông mang tên thánh là Antôn và vợ là
Paula. Bà phi kia tức giận, lệnh cho quan địa phương trói ông vào cột nơi công
cộng, đánh đòn. Tuy vậy cả hai ông bà vẫn hăng say truyền đạo. Mỗi lần về kinh
đô là ông dẫn theo nhiều người về chịu phép Thánh Tẩy.
Hoặc như ông
Phanxicô dù mới theo đạo được hai năm, nhưng can đảm thi hành đức ái triệt để
“chôn xác kẻ chết”, vác xác đi chôn những người chết không nhà cửa, mà ông lại
là người khiêng kiệu cho một quan lớn. Chính vì thế nên viên quan ra lệnh cấm
ông chôn xác chết. Không tuân lệnh, nên Phanxicô bị quan đánh đòn, tống giam
trong ngục, sau cùng quan cho chém đầu Phanxicô. Ông chính là nạn nhân đầu
tiên đổ máu ở Đàng Ngoài và đó là năm 1630.
Nếu như ở Đàng
Ngoài có ông Phanxicô là vị tử đạo tiên khởi thì 14 năm sau, tại Đàng Trong có thầy
giảng Anrê Phú Yên tử đạo tại Thành Chiêm ngày 26-7-1644. Sau cái chết của thầy
Anrê, cuộc bách hại ở Đàng Trong ngày càng lan rộng. Tại Quy nhơn, quan lại ra
lệnh cho người có đạo phải ra báo cáo. Chỉ mới ngày đầu đã có 700 người, quan sợ
có nổi loạn nên chỉ chọn và bắt trói 36 người, sau đó 35 người đã can đảm tuyên
xưng niềm tin và sẵn sàng để chịu mọi khổ hình vì đạo. Những chứng nhân ở Đàng
Trong cần phải kể đến ông Inhaxu và hai người họ hàng, bà Paula cùng với hai
con gái ở Quy Nhơn, 9 giáo dân ở Quãng Bình-Quãng Trị và rất nhiều những tín hữu
khác đã cam chịu mọi thiệt thòi, đau đớn để giữ vững đức tin.
Tóm lại trong thời
gian này, các thừa sai nhiều lần bị trục xuất, kèm theo đó là sự nghi kỵ, phá rối,
chống đối và bạo hành đối với người tín hữu. Tuy nhiên trong mọi hoàn cảnh, người
tín hữu Việt Nam luôn kiên vững trong đức tin, lướt thắng mọi thử thách và vui
lòng đổ máu để minh chứng cho chân lý.
Kết luận
Như vậy, trong thời
gian trước năm 1659, công lớn trong việc đặt nền móng Giáo hội Việt Nam thuộc về
các cha dòng Tên. Nhưng Tin mừng được lan rộng nhanh chóng và cắm rễ sâu trên mảnh
đất này còn nhờ vào những đóng góp lớn lao của hàng tín hữu. Những đóng góp đó
trước hết là đời sống thánh thiện đạo đức, là lòng nhiệt tâm rao giảng, là sự
nhiệt thành cộng tác trong lãnh vực bác ái cũng như trí thức và cuối cùng là
gương trung kiên trong đời sống chứng nhân. Với những đóng góp này ta có thể
nói người tín hữu Việt Nam đã tạo nên một Giáo hội sống động và làm nền tảng vững
chắc cho sự phát triển của Giáo hội cho đến ngày nay.
[1] Xc. Đỗ Quang Chính, Lòng nhiệt thành của bổn đạo Việt Nam, trích
từ trang web www.dunglac.org
[2] Xc. Nguyễn Văn Trinh, Lịch sử Giáo hội Việt Nam, tập 2 (TPHCM:
ĐCV Giuse, 1994), tr 306.
[3] Xc. Đỗ Quang Chính, nt.
[4] Xc. Đỗ Quang Chính, nt.
[5] Xc. Đỗ Quang Chính, nt.
[6] Xc. Đỗ Quang Chính, nt.
[7] Xc. Đỗ Quang Chính, nt.
[8] Xc. Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, quyển
1 (Sài Gòn: Hiện Tại, 1959), tr. 60. 75.
[9] Xc. Nguyễn Văn Trinh, sđd,
tr. 340.
[10] Xc. Đỗ Quang Chính, nt.
[11] Xc. Nguyễn Văn Trinh,
sđd, tr. 341.
[12] Xc. Đỗ Quang Chính, nt.
[13] Xc. Nguyễn Văn Trinh,
sđd, tr.311.
[14] Xc. Nguyễn Hồng, sđd, tr.
206.
[15] Xc. Đỗ Quang Chính, nt.