Trong nhà nguyện, Hắn chắp tay cầu nguyện. Hắn xin cho có tinh thần dấn thân để phục vụ của Chúa và Giáo Hội.
Trên đường về phòng, Hắn thấy T đang loay hoay quét dọn phòng một mình. thoáng ngập ngừng, hắn bước vội về phòng. Tự nhủ mình phải viết cho xong bài báo về dấn thân.
Tuýt …, còi báo hiệu giờ học vang lên. Hắn cũng vừa hoàn thành bài báo, thong thả bước đến phòng học. Cùng lúc, ở phía đối diện, T đang vội vã chạy về phòng thay đồ. Mặt mày nhễ nhại mồ hôi.
Giảng giải đạo lý thánh bằng lời nói và chữ viết cũng như những phương thế khác giúp phổ biến và am hiểu đức tin là điều cốt yếu của ơn gọi Đa Minh (x. HP, số 102)
- Trang chủ
- Nói với Chúa
- Thường Niên ▼
- Tuần I
- Tuần II
- Tuần III
- Tuần IV
- Tuần V
- Tuần VI
- Tuần VII
- Tuần VIII
- Tuần IX
- Tuần X
- Tuần XI
- Tuần XII
- Tuần XIII
- Tuần XIV
- Tuần XV
- Tuần XVI
- Tuần XVII
- Tuần XVIII
- Tuần XIX
- Tuần XX
- Tuần XXI
- Tuần XXII
- Tuần XXIII
- Tuần XXIV
- Tuần XXV
- Tuần XXVI
- Tuần XXVII
- Tuần XXVIII
- Tuần XXIX
- Tuần XXX
- Tuần XXXI
- Tuần XXXII
- Tuần XXXIII
- Tuần XXXIV
- Vọng và Giáng Sinh ▼
- Chay và Phục Sinh ▼
- Lễ Riêng ▼
- Đức Mẹ ▼
- Gia đình
- Tài liệu ▼
Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013
Chạnh lòng hay chạy trốn?
Được tin báo tôi chạy đến bệnh viện tìm Em. Tiếng gọi, tiếng khóc, tiếng la, tiếng rên, v.v., hòa trộn vào nhau làm tăng thêm vẻ ồn ào khó chịu của một không gian vốn đã chật hẹp. Nơi đây, tôi nhìn thấy những vẻ mặt khác nhau: buồn bã, lo lắng, mệt mỏi, đau đớn, chịu đựng, tuyệt vọng. Hòa mình trong khung cảnh đó khiến lòng tôi vừa xót xa vừa bất lực. Tôi quay bước với những câu hỏi trái ngược: Mình có chạnh lòng thương hay đang chạy trốn trước đau khổ của con người?
Mầu nhiệm Giáng sinh nhắc nhở tôi
Ngày xưa, Người đã đến nhà mình
Người đến nhà mình trong thân hình một trẻ thơ yếu ớt. Có gì đáng kể đâu ! chỉ là một hài nhi đỏ hỏn cất tiếng khóc oe oe. Một trẻ thơ vùng vằng trong tay mẹ rồi năm im nuốt từng dòng sửa ấm. Một trẻ thơ nhắm nghiền đôi mắt đi vào giấc ngủ bình an. Đáng kể gì đâu một hình ảnh nghèo nàn, dung dị. Thiên hạ vẫn khép cửa. Họ sưởi ấm bằng những toan tính riêng của mình. Mặc kệ ngoài kia một hài nhi lạnh lẽo.
Người đến nhà mình trong dáng dấp một anh thợ. Có gì đặc biệt đâu một anh thợ nơi làng quê ! Phải chi anh là tư tế, là vương tôn hay một danh phận quí tộc nào đó. Nhưng không. Anh là một người thợ chính danh. Anh sống hòa đồng với bạn bè làng xóm. Những cuộc vui, những buổi họp mặt, những lần gặp gỡ nơi hội đường anh luôn có mặt, đồng hành và chia sẻ. Anh là người bạn gần gũi thân thiết với những người trẻ đang lo toan kiếm sống.
Người đến nhà mình trong thân phận một chàng trai say sưa hát bài du ca tình yêu. Bài ca anh hát dành cho tất cả mọi người nhưng anh đặc biệt gửi tặng cho người nghèo. Họ là những người bệnh hoạn tật nguyền, những người bị xã hội loại bỏ như : phụ nữ, trẻ em, thu thuế. Bài tình ca này anh đã say sưa hát từ miền biển lên sườn đồi đỉnh núi ; từ đồng cỏ xanh tươi qua bờ giếng ven làng đến phố xá thành thị. Tuyệt đỉnh của bài ca được kết tinh trên thập giá nhằm mang lại sự sống cho muôn người.
Thế nhưng ...Người nhà chẳng chịu đón nhận
Người nhà đã mòn mỏi mong chờ. Sự mòn mỏi khiến đôi mắt mệt lừ và khô khốc. Nó không còn tinh nhạy. Nó thờ ơ và vô cảm trước những cảnh đời đáng thương. Nó lãnh đạm trước tình cảnh đôi vợ chồng xa quê và như thế vô tình khước từ Đấng Cứu Thế.
Người nhà chê anh thợ vì cho rằng anh chẳng hơn gì họ. Vô tình họ chống lại Đấng Cứu Tinh.
Người nhà khó chịu trước lối sống nhập thế của anh chàng say đắm hát bài tình ca. Họ quyết đưa chàng đến chỗ chết, và như vậy họ đã cố tình loại bỏ Thiên Chúa.
Người đã đến nhà mình. Mặc dù người nhà chẳng chịu đón nhận nhưng người vẫn sống và say mê lý tưởng đến cùng. Người đã đến ném lửa vào trần gian. Qua dòng thời gian, ngọn lửa có lúc bừng sáng, có lúc lu mờ. Và ngày hôm nay, Người lại đến, “đứng trước cửa và gõ” (Kh 3, 20). Người mời gọi ta khơi bùng ngọn lửa dấn thân.
Mừng mầu nhiệm nhập thể là dịp nhắc nhở ta rằng Người đã đến, đứng trước cửa và gõ. Không phải ta chờ đợi Người nhưng chính Người đang chờ đợi ta. Người để ta tự do đón nhận hay từ chối.
Người đứng trước cửa và gõ. Tuy nhiên danh phận của Người ta chưa biết được. Có thể trong tư cách của vị hoàng tử, hay dưới lớp áo của kẻ hành khất ; có thể một phụ nữ lỡ bước sa chân hay một trẻ thơ tiều tụy kiệt sức ; cũng có thể là một công nhân, nông dân hay một nghệ sĩ lãng mạn nào đó ; có thể là một con bệnh, một phạm nhân hay một thương nhân giàu có. Tất cả đều có thể là hình ảnh, là hiện thân của Ngôi Lời nhập thể. Và như vậy đòi hỏi tôi phải nhạy cảm để lắng nghe và tiếp đón.
Ai nghe và mở cửa Ta sẽ vào nhà
Con người ngày nay bị vây bọc bởi nhiều tiếng ồn : có tiếng ồn vật lý do con người hay thiên nhiên và cũng có tiếng ồn tâm lý do những lo toan, tính toán. Vì tinh thần luôn bận rộn và bất ổn nên con người khó lặng thinh nghe tiếng Chúa. Để nghe tiếng gõ cửa trước hết ta phải khao khát, ước muốn và mong đợi. Chỉ khi tôi sẳn sàng mở cửa tâm hồn lập tức Người sẽ ngự vào. Như vậy, hôm nay mừng mầu nhiệm Giáng sinh là mừng ngày tôi mở cửa tâm hồn ra để Ngôi Lời nhập thể vào, để trái tim tôi cùng chung nhịp đập với trái tim Người, để Người ở lại trong tôi và tôi ở lại trong Người (x. Ga 15,4). Để sau khi có Người tôi sẽ cùng Người ra đi, gõ cửa tâm hồn thế gian.
Phải chi lửa ấy đã bùng lên
Qua mầu nhiệm Nhập thể, Đức Giêsu đã châm ngòi ngọn lửa tình yêu. Hội thánh ngày nay có sứ vụ thổi bùng ngọn lửa đó bằng lối sống nhập thế của mình. Giêsu đã dành bản tình ca đặc biệt cho người nghèo. Ngày nay, phần đông những người nghèo trên thế giới, đặc biệt ở Á châu và Phi châu, vẫn chưa cảm được bàn tình ca này. Ngọn lửa tình yêu vẫn chưa chạm tới họ. Vẫn còn quá ít những nhân vật nhấp thế như mẹ Têrêxa Calcutta, Giám mục Jean Cassaigne Sanh, linh mục Vinh sơn Phaolo hay Charles de Foucauld. Giáo hội ngày nay cần lắm những chứng nhân, những người giữ lửa và truyền lửa. Cần lắm những người dấn thân đem Tin mừng cho người nghèo.
Lạy Chúa, xin cho con có tinh thần dấn thân để cùng Chúa con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian.
Nhãn:
Mùa Vọng và Giáng Sinh,
Tài liệu,
thang 12
Bài học cầu nguyện
Đêm. Trăng sáng. Vạn vật chìm trong tĩnh mịch. Xa xa, thấp thoáng bóng người môn đệ dõi theo bước chân Thầy. Thầy ngồi đó, chìm đắm cùng cỏ cây. Dáng Thầy huyền ảo, nét mặt ngất ngây. Thầy đang cầu nguyện.
Cảm xúc dâng trào, người môn đệ ao ước cũng được như Thầy. Anh rón rén, rụt rè: Thầy! Xin dạy con cầu nguyện.
Thầy nhìn anh triều mến. Thầy nhìn thấu nỗi khao khát của anh, nhưng Thầy cũng biết anh chưa đủ sức. Cách cụ thể, Thầy bảo: Khi cầu nguyện anh hãy đọc thế này: Lạy Cha chúng con ở trên trời, …
Đó là bước khai tâm của người môn đệ. Từ lời khẩu nguyện đơn sơ, anh nhận ra niềm hạnh phúc vô bờ của một người con đang thân thức với Cha mình. Từ đó, ngày ngày anh cầu nguyện sốt sắng: Lạy Cha chúng con ở trên trời…
Cảm xúc lướt web
Mỗi khi cầm tờ báo hay lướt vài trang web là hàng chục tin tức và sự kiện đập vào mắt. Đa số những tiêu đề chỉ để đọc qua mà thôi, có vài tiêu đề đánh động ta dừng lại suy nghĩ và thỉnh thoảng có những tiêu đề khiến ta phải tìm hiểu thêm. Có những tiêu đề không gợi tí cảm xúc gì, nhưng cũng có những tiêu đề nghe sâu lắng; Có những tiêu đề đọc lên thấy bực mình, có những tiêu đề nghe cũng vui vui; Có những tiêu đề thấy phấn khởi nhưng cũng có những tiêu để nghe man mác buồn hay xót xa lòng. Điệp khúc của cảm xúc cứ lặp đi lặp lại đến quen thuộc. Thế rồi một lúc nào đó bỗng giật mình nhận ra những cảm xúc theo dòng đời đã nhường chỗ cho một sự tò mò không hơn không kém!
Bình an cho nhà này! (Lc 10, 1-9)
CHÚA NHẬT 14C - THƯỜNG NIÊN (Lc 10, 1-9)
Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!”
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Đức Giê-su sai bảy mươi hai môn đệ ra đi. Sau một thời gian ở với Chúa, được nghe những lời Chúa giảng, được chứng kiến những dấu lạ Người làm, nay đến lượt các ông được sai đi để dọn đường cho Chúa. Ở đây, không phải Đức Giê-su sai mười hai tông đồ nhưng là sai bảy mươi hai môn đệ. Điều này cho thấy tính phổ quát của sự việc. Đức Giê-su cần nhiều người cộng tác với Người trong việc đi đến các làng mạc mà loan báo sứ điệp của Chúa.
Điều này vẫn còn đúng trong thời đại ngày nay. Chúa đang cần nhiều cánh tay để tiếp nối sứ vụ của Chúa trong trần gian này. Chúng ta, những người Ki-tô hữu, nhờ Giáo hội và qua Giáo hội, chúng ta đã đến với Chúa, đã nghe những lời Chúa giảng, đã biết những việc Chúa làm, đã được Chúa ngự vào lòng qua bí tích Thánh Thể, đến lượt chúng ta cũng được sai đi để làm sứ giả cho Chúa. Đây là niềm hạnh phúc và là trách nhiệm của mỗi người chúng ta, vì sứ mạng truyền giáo của Giáo hội cũng là sứ mạng của mỗi thành viên. Sứ mạng của chúng ta ngày nay không nhất thiết là phải đi từ làng này đến làng khác nhưng là chính trong môi trường sống của chúng ta. Miễn sao nội dung của sứ điệp vẫn là “bình an cho nhà này!”.
Thực vậy, Đức Giê-su đã sai các môn đệ ra đi với sứ điệp bình an, sứ điệp mà chính Người đã mang đến trần gian qua lời các thiên thần trong đêm Giáng sinh cũng như qua chính miệng Người sau khi sống lại. Bình an vẫn là điều mà con người qua các thời đại vẫn hằng khao khát nhưng dường như chưa bao giờ thõa mãn.
Quả thực, xã hội ngày nay đang đầy dẫy những bất an. Chiến tranh, bạo lực đang đe dọa các quốc gia. Đời sống kinh tế, xã hội đầy những bất ổn. Các tệ nạn đang hoành hành, đạo đức xuống dốc. Con người đang sống với bao lo âu, sợ hãi. Nhiều người trẻ lo ngại trong việc lập gia đình; nhiều thanh niên ưu tư cho nghề nghiệp tương lai; nhiều cha mẹ lo lắng cho con cái. Trong nhà thì sợ gia đình đỗ vỡ; ra ngoài thì sợ công việc bất định; vào xã hội thì sợ bao tai nạn, rủi ro rình rập. Khuôn mặt của con người ngày nay là khuôn mặt của những ưu tư lo lắng.
Thực ra, những điều làm cho chúng ta ưu tư lo lắng phần lớn là những điều thuộc về đời sống trước mắt và thuộc về bên ngoài. Vì quá lệ thuộc vào chúng nên chúng ta ít khi có được bình an thực sự. Nếu chúng ta ý thức cùng đích cuộc đời là gì, ý nghĩa cuộc sống ở đâu, đâu là nền tảng của hạnh phúc thực thì chúng ta cũng sẽ nhận ra những điều ta lo lắng cũng chỉ là những điều tạm bợ, chóng qua mà thôi.
Vậy đâu là bình an đích thực? Làm thế nào để có được bình an đó?
Trong đêm Giáng sinh, các thiên thần đã ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời/ Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Trong các lần hiện ra sau phục sinh, Đức Giê-su cũng chào các môn đệ: “Bình an cho anh em”. Vậy bình an đích thực chỉ có nơi Đức Giê-su. Sự hiện diện của Đức Giê-su mang lại nguồn bình an đích thực cho những ai thành tâm thiện chí. Vắng Đức Giê-su, chúng ta sẽ bất an lo lắng. Có Đức Giê-su, chúng ta sẽ an dạ vững lòng.
Vậy để có được bình an đích thực, chúng ta phải luôn tin tưởng có Chúa ở cùng ta. Chúng ta luôn ý thức Chúa yêu thương, chăm lo, gìn giữ ta. Để rồi từ ý thức và niềm tin đó, chúng ta đến với Chúa cách thường xuyên hơn qua việc tham dự thánh lễ, cử hành các giờ kinh nguyện, đặc biệt là cầu nguyện, chuyện trò với Chúa thường xuyên hơn. Có như vậy chúng ta mới cảm nhận được sự bình an đích thực trong tâm hồn. Một sự bình an mà những xao động bên ngoài không thể lay chuyển hay lấy mất đi.
Một khi chính bản thân chúng ta có được sự bình an này rồi thì chúng ta mới có thể chuyển trao nó cho người khác. Ước gì mỗi Ki-tô hữu đều biết được bình an đích thực là gì và tìm mọi cách để có được nó. Chỉ như vậy thì mỗi người mới có thể trở thành sứ giả của Chúa và mang bình an đến cho mọi người, mọi nhà.
Anh em bảo Thầy là ai?
CHÚA NHẬT 12C - THƯỜNG NIÊN (Lc 9, 18-24)
Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?Sau một thời gian bôn ba khắp nơi rao giảng Tin mừng cứu độ và chữa lành bệnh tật cho nhiều người, chắc chắn danh tiếng của Đức Giê-su đã được biết đến rất nhiều. Từ khắp nơi, người ta đồn thổi về con người lạ lùng này và tự hỏi ông là ai. Từ trong dân chúng, có nhiều quan niệm khác nhau về căn tính và nguồn gốc của Đức Giê-su. Nói chung, họ đồng hóa Người với một trong các ngôn sứ vĩ đại thời xưa sống lại. Với sự đồng hóa như thế, họ nghĩ rằng mình đã dành cho Đức Giê-su sự tôn trọng nhất có thể. Chắc chắn Đức Giê-su biết nhận định của dân chúng về chính bản thân mình. Tuy vậy, Người vẫn hỏi các môn đệ xem “dân chúng nói Thầy là ai?” Người hỏi không chỉ để biết nhưng để từ đó dẫn các môn đệ đi xa hơn cái nhìn của dân chúng.
Thực vậy, sau khi nghe các ông trả lời xong, Người liền hỏi tiếp: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đức Giê-su muốn chính bản thân các môn đệ phải xác định căn tính và nguồn gốc Thầy mình chứ không phải chỉ nghe theo dân chúng mà thôi. Mỗi người cần xác định rõ quan điểm của mình về Đức Giê-su để từ đó có thể xây dựng một tương quan đúng đắn và tốt đẹp. Khi được hỏi, ông Phê-rô đã nhanh nhảu thưa ngay “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Phê-rô trả lời đúng căn tính của Đức Giê-su, Người là Đấng Ki-tô, nghĩa là Đấng Mê-si-a, Đấng được xức dầu, Đấng mà dân Do thái vẫn hằng mong đợi để giải thoát họ. Thế nhưng ông chưa hiểu đường lối hoạt động của Người. Người
Do thái, trong đó có cả các môn đệ, vẫn hiểu và mong đợi Đấng Ki-tô theo nghĩa chính trị, là Đấng giải thoát họ khỏi ách đô hộ Rô-ma. Chính vì thế, Đức Giê-su đã nghiêm giọng không cho các ông nói điều đó với ai.
Tiếp đó, Đức Giê-su phải giải thích cho họ biết đường lối và cách thức hoạt động của Đấng Mê-si-a qua việc loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất. Người nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đây quả là một đường lối mà các môn đệ không thể hình dung nổi. Nó nằm ngoài suy nghĩ và trí tưởng tượng của các ông. Chính vì thế, Đức Giê-su còn phải nhiều lần nhắc đi nhắc lại cho các ông biết Người sẽ bị đối xử như thế nào và kết cục sẽ ra sao.
Từ chỗ mạc khải về chính mình như thế, Đức Giê-su cũng mời gọi các môn đệ, những người muốn đi theo Người cũng phải “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đức Giê-su muốn các môn đệ ý thức rõ, theo Người không phải là con đường bằng phẳng với vinh hoa phú quý chờ sẵn, nhưng theo Người là chấp nhận từ bỏ nhiều thứ như có lần Phê-rô đã nói: phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy (x. Mt 19,27). Theo Người còn có nghĩa là phải vác thập giá mình, không chỉ một lần nhưng là hằng ngày.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta cần xác định lại căn tính và nguồn gốc của Đức Giê-su. Người là ai? Từ đâu đến? Đến để làm gì và bằng cách nào? Có như vậy ta mới xây dựng mối tương quan và có thái độ hợp lý với Người. Thực vậy, câu trả lời của Phê-rô giúp chúng ta xác định Đức Giê-su là ai. Các sách Tin mừng cho ta câu trả lời chính xác về mục đích và cách thức Thiên Chúa cứu độ con người. Thế nhưng dường như ta vẫn thờ ơ, dửng dưng trước bao nhiêu ân huệ đã lãnh nhận. Lắm khi ta đến với Chúa như một cái máy, tham dự thánh lễ một cách hình thức, cầu nguyện cách hời hợt. Đó là chưa kể những lần nguội lạnh, né tránh hay cố tình xa rời Chúa.
Chúng ta chấp nhận đi theo Chúa qua Bí tích Thanh tẩy, qua đó Chúa mời gọi chúng ta gột rửa con người cũ và thay thế bằng con người mới. Thế nhưng chúng ta đã từ bỏ những gì? Đời sống chúng ta đã có gì thay đổi? Chúng ta đã dám từ bỏ lối sống của xác thịt để mặc lấy đời sống của Thần Khí! Đó là chưa kể những lần chúng ta ngại hy sinh, ngại vác thập giá. Thập giá quả là nặng nề và khó nhọc nhưng đó lại là con đường duy nhất để theo Đức Giê-su. Vì như Đức Giê-su đã bước qua thập giá để vào vinh quang như thế nào thì con người cũng phải vác thập giá mình để tham dự bàn tiệc vinh quang với Chúa như vậy.
Tiếp đó, Đức Giê-su phải giải thích cho họ biết đường lối và cách thức hoạt động của Đấng Mê-si-a qua việc loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất. Người nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đây quả là một đường lối mà các môn đệ không thể hình dung nổi. Nó nằm ngoài suy nghĩ và trí tưởng tượng của các ông. Chính vì thế, Đức Giê-su còn phải nhiều lần nhắc đi nhắc lại cho các ông biết Người sẽ bị đối xử như thế nào và kết cục sẽ ra sao.
Từ chỗ mạc khải về chính mình như thế, Đức Giê-su cũng mời gọi các môn đệ, những người muốn đi theo Người cũng phải “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Đức Giê-su muốn các môn đệ ý thức rõ, theo Người không phải là con đường bằng phẳng với vinh hoa phú quý chờ sẵn, nhưng theo Người là chấp nhận từ bỏ nhiều thứ như có lần Phê-rô đã nói: phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy (x. Mt 19,27). Theo Người còn có nghĩa là phải vác thập giá mình, không chỉ một lần nhưng là hằng ngày.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta cần xác định lại căn tính và nguồn gốc của Đức Giê-su. Người là ai? Từ đâu đến? Đến để làm gì và bằng cách nào? Có như vậy ta mới xây dựng mối tương quan và có thái độ hợp lý với Người. Thực vậy, câu trả lời của Phê-rô giúp chúng ta xác định Đức Giê-su là ai. Các sách Tin mừng cho ta câu trả lời chính xác về mục đích và cách thức Thiên Chúa cứu độ con người. Thế nhưng dường như ta vẫn thờ ơ, dửng dưng trước bao nhiêu ân huệ đã lãnh nhận. Lắm khi ta đến với Chúa như một cái máy, tham dự thánh lễ một cách hình thức, cầu nguyện cách hời hợt. Đó là chưa kể những lần nguội lạnh, né tránh hay cố tình xa rời Chúa.
Chúng ta chấp nhận đi theo Chúa qua Bí tích Thanh tẩy, qua đó Chúa mời gọi chúng ta gột rửa con người cũ và thay thế bằng con người mới. Thế nhưng chúng ta đã từ bỏ những gì? Đời sống chúng ta đã có gì thay đổi? Chúng ta đã dám từ bỏ lối sống của xác thịt để mặc lấy đời sống của Thần Khí! Đó là chưa kể những lần chúng ta ngại hy sinh, ngại vác thập giá. Thập giá quả là nặng nề và khó nhọc nhưng đó lại là con đường duy nhất để theo Đức Giê-su. Vì như Đức Giê-su đã bước qua thập giá để vào vinh quang như thế nào thì con người cũng phải vác thập giá mình để tham dự bàn tiệc vinh quang với Chúa như vậy.
Ai là người thân cận của tôi ?
CHÚA NHẬT 15C - THƯỜNG NIÊN (Lc 10, 25-37)
Ai là người thân cận của tôi ?
Bài Tin mừng ngày hôm nay đưa chúng ta vào trọng tâm của giáo lý Do Thái giáo và Ki-tô giáo. Thực vậy, nhà thông luật đã đại diện cho toàn thể các tín hữu mọi thời đại để hỏi Đức Giê-su (dù cho ông chỉ muốn thử Người) câu hỏi quan trọng nhất: Phải làm gì để được sự sống đời đời? Qua câu trả lời của chính ông, một cách gián tiếp, Đức Giê-su cũng trả lời cho tất cả chúng ta bằng cách nhắc lại điều răn của Cựu Ước. Một điều răn căn bản mà hầu như tất cả mọi người đều biết, đó là luật mến Chúa và yêu người mà Cựu Ước đã thường xuyên nhắc đi nhắc lại.
Tuy nhiên nhà thông luật đã nêu lên một vấn nạn quan trọng, đó là: Ai là người thân cận của tôi? Theo ngôn ngữ tiếng Việt, người thân cận ám chỉ những người bà con trong gia đình, chòm xóm láng giềng gần gũi hay bạn bè thân thuộc. Xa hơn nữa, người thân cận ám chỉ những người nghèo khổ khó khăn cần sự giúp đỡ. Đây cũng chính là quan niệm của người Do Thái.
Theo não trạng của người Do Thái, chỉ những người Do Thái mới là thân cận của nhau. Còn những người khác như dân ngoại, người Sa-ma-ri không những không phải là người thân cận mà còn là những người đáng ghê tởm vì họ không cùng tôn giáo. Dù cho sách Lê-vi (x. Lv 19, 34) và sách Đệ Nhị Luật (x. Đnl 10, 18-19) dạy rằng những người ngoại kiều sống trong đất Do Thái cũng phải được đối xử tử tế và được yêu mến nhưng thực tế thì điều đó rất khó xảy ra.
Đức Giê-su biết rõ não trạng này nên Người đã dùng dụ ngôn “người Sa-ma-ri tốt lành” để trả lời cho nhà thông luật. Qua dụ ngôn này, Đức Giê-su cho thấy người thân cận không còn giới hạn trong dân Do Thái với nhau mà thôi. Nếu như người Sa-ma-ri đã thực thi lòng thương xót với người Do Thái bị nạn thì ông chính là người thân cận của người bị nạn. Hay nói chính xác hơn, ai thực thi lòng bác ái với người khác thì họ trở thành người thân cận của chính người đó. Với quan niệm này, khái niệm “người thân cận” được mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo. Khái niệm “người thân cận” từ đây chỉ dành cho những người biết yêu thương nhau.
Đức Giê-su còn đi xa hơn khi bảo người thông luật: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Đây là một lời mời gọi, một lời khuyến khích chọn lối sống chủ động. Thay vì hỏi ai là người thân cận của tôi thì ta phải chủ động trở nên người thân cận của mọi người.
Lời Chúa hôm nay quả là một lời mời gọi thiết thực cho đời sống đạo của chúng ta. Chúng ta vẫn hay quen với câu hỏi thụ động ai là thân cận của tôi và thông thường chúng ta mặc định người thân cận là những người thân bên cạnh chúng ta. Câu hỏi và câu trả lời này không sai nhưng nó chưa đủ để diễn tả tinh thần của người môn đệ Đức Giê-su. Chúng ta cần đặt lại câu hỏi tôi là người thân cận của ai và hãy bắt chước hành động của người Sa-ma-ri tốt lành cũng như thực thi lời động viên của Đức Giê-su: hãy đi và làm như vậy.
Xã hội ngày nay có biết bao người gặp nạn đang cần sự giúp đỡ. Họ có thể là nạn nhân của nghèo đói, bệnh tật; của bất công, kỳ thị. Họ cũng có thể là những người cô đơn, thất vọng, khô khan, buồn chán và nhiều lắm những nạn nhân của kinh tế, xã hội và chính trị. Thế nhưng những người Sa-ma-ri tốt lành lại ít xuất hiện. Biết bao người đi qua mới có một người mủi lòng cúi xuống trước những nạn nhân xấu số. Đôi khi chính những quy tắc xã hội lại tạo nên những rào cản khiến cho người ta ngại ngùng dừng chân để liên lụy vào cuộc đời người khác.
Thực vậy, để bỏ ra một ít tiền của giúp đỡ người khác thì dễ nhưng để “liên lụy” với họ thì thật là khó. Chẳng hạn khi gặp một tai nạn ngoài đường, người ta ngại dừng lại để đưa nạn nhân vào bệnh viện, không phải vì họ thờ ơ cho bằng họ ngại những thủ tục rườm rà kéo theo. Đó là chưa kể đến căn bệnh vô cảm mà ngày nay nhiều người đang lên án và tìm cách “chữa trị”.
Là người Ki-tô hữu, chúng ta không những không được phép vô cảm nhưng còn phải biết thực thi lời mời gọi của Đức Giê-su. Nếu mỗi người đều ý thức và chủ động ra đi để trở thành người thân cận của người khác thì Giáo hội sẽ phản ánh trung thực hơn hình ảnh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng là đầu của Giáo hội.
Ai là người thân cận của tôi ?
Bài Tin mừng ngày hôm nay đưa chúng ta vào trọng tâm của giáo lý Do Thái giáo và Ki-tô giáo. Thực vậy, nhà thông luật đã đại diện cho toàn thể các tín hữu mọi thời đại để hỏi Đức Giê-su (dù cho ông chỉ muốn thử Người) câu hỏi quan trọng nhất: Phải làm gì để được sự sống đời đời? Qua câu trả lời của chính ông, một cách gián tiếp, Đức Giê-su cũng trả lời cho tất cả chúng ta bằng cách nhắc lại điều răn của Cựu Ước. Một điều răn căn bản mà hầu như tất cả mọi người đều biết, đó là luật mến Chúa và yêu người mà Cựu Ước đã thường xuyên nhắc đi nhắc lại.
Tuy nhiên nhà thông luật đã nêu lên một vấn nạn quan trọng, đó là: Ai là người thân cận của tôi? Theo ngôn ngữ tiếng Việt, người thân cận ám chỉ những người bà con trong gia đình, chòm xóm láng giềng gần gũi hay bạn bè thân thuộc. Xa hơn nữa, người thân cận ám chỉ những người nghèo khổ khó khăn cần sự giúp đỡ. Đây cũng chính là quan niệm của người Do Thái.
Theo não trạng của người Do Thái, chỉ những người Do Thái mới là thân cận của nhau. Còn những người khác như dân ngoại, người Sa-ma-ri không những không phải là người thân cận mà còn là những người đáng ghê tởm vì họ không cùng tôn giáo. Dù cho sách Lê-vi (x. Lv 19, 34) và sách Đệ Nhị Luật (x. Đnl 10, 18-19) dạy rằng những người ngoại kiều sống trong đất Do Thái cũng phải được đối xử tử tế và được yêu mến nhưng thực tế thì điều đó rất khó xảy ra.
Đức Giê-su biết rõ não trạng này nên Người đã dùng dụ ngôn “người Sa-ma-ri tốt lành” để trả lời cho nhà thông luật. Qua dụ ngôn này, Đức Giê-su cho thấy người thân cận không còn giới hạn trong dân Do Thái với nhau mà thôi. Nếu như người Sa-ma-ri đã thực thi lòng thương xót với người Do Thái bị nạn thì ông chính là người thân cận của người bị nạn. Hay nói chính xác hơn, ai thực thi lòng bác ái với người khác thì họ trở thành người thân cận của chính người đó. Với quan niệm này, khái niệm “người thân cận” được mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo. Khái niệm “người thân cận” từ đây chỉ dành cho những người biết yêu thương nhau.
Đức Giê-su còn đi xa hơn khi bảo người thông luật: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Đây là một lời mời gọi, một lời khuyến khích chọn lối sống chủ động. Thay vì hỏi ai là người thân cận của tôi thì ta phải chủ động trở nên người thân cận của mọi người.
Lời Chúa hôm nay quả là một lời mời gọi thiết thực cho đời sống đạo của chúng ta. Chúng ta vẫn hay quen với câu hỏi thụ động ai là thân cận của tôi và thông thường chúng ta mặc định người thân cận là những người thân bên cạnh chúng ta. Câu hỏi và câu trả lời này không sai nhưng nó chưa đủ để diễn tả tinh thần của người môn đệ Đức Giê-su. Chúng ta cần đặt lại câu hỏi tôi là người thân cận của ai và hãy bắt chước hành động của người Sa-ma-ri tốt lành cũng như thực thi lời động viên của Đức Giê-su: hãy đi và làm như vậy.
Xã hội ngày nay có biết bao người gặp nạn đang cần sự giúp đỡ. Họ có thể là nạn nhân của nghèo đói, bệnh tật; của bất công, kỳ thị. Họ cũng có thể là những người cô đơn, thất vọng, khô khan, buồn chán và nhiều lắm những nạn nhân của kinh tế, xã hội và chính trị. Thế nhưng những người Sa-ma-ri tốt lành lại ít xuất hiện. Biết bao người đi qua mới có một người mủi lòng cúi xuống trước những nạn nhân xấu số. Đôi khi chính những quy tắc xã hội lại tạo nên những rào cản khiến cho người ta ngại ngùng dừng chân để liên lụy vào cuộc đời người khác.
Thực vậy, để bỏ ra một ít tiền của giúp đỡ người khác thì dễ nhưng để “liên lụy” với họ thì thật là khó. Chẳng hạn khi gặp một tai nạn ngoài đường, người ta ngại dừng lại để đưa nạn nhân vào bệnh viện, không phải vì họ thờ ơ cho bằng họ ngại những thủ tục rườm rà kéo theo. Đó là chưa kể đến căn bệnh vô cảm mà ngày nay nhiều người đang lên án và tìm cách “chữa trị”.
Là người Ki-tô hữu, chúng ta không những không được phép vô cảm nhưng còn phải biết thực thi lời mời gọi của Đức Giê-su. Nếu mỗi người đều ý thức và chủ động ra đi để trở thành người thân cận của người khác thì Giáo hội sẽ phản ánh trung thực hơn hình ảnh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng là đầu của Giáo hội.
Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013
Ghi nhận những bài học về cuộc đối thoại giữa niềm tin và lý trí trong thời Trung Cổ
Dẫn nhập
Nét đặc trưng của triết học thời trung cổ chính là mối liên hệ mật thiết giữa triết học với tôn giáo. Suy tư triết lý trong giai đoạn này là nổ lực dung hòa niềm tin và lý trí. Với người Hylạp, lý trí là dụng cụ hữu hiệu và sắc bén để tìm hiểu thế giới. Do đó lý trí giữ vai trò then chốt cả trong lãnh vực tôn giáo và việc phượng tự. Trong khi đó, nền văn hóa sémitique thì ngược lại, yếu tố tôn giáo mới là trung tâm điểm của đời sống. Trong nền văn minh này, con người đạt đến sự công chính nhờ tuân phục ý muốn Thiên Chúa. Yếu tố quan trọng nhất để sống khôn ngoan và công chính không phải là hiểu biết của lý trí mà là sự trung tín với Thiên Chúa.
Việc Kitô giáo xuất hiện và phát triển trước tiên trong thế giới của văn hóa Hylạp như Athen, Alexandria và Rôma đã tạo nên cuộc đụng độ giữa đức tin Kitô giáo và triết học. Cuộc đụng độ của hai truyền thống trên đã tạo nên một cuộc đối thoại liên hồi giữa đức tin và lý trí trong suốt thời kỳ triết học trung cổ. Trong cuộc đối thoại này, phần thắng có khi thuộc về lập trường duy tín, khi thì thuộc về duy trí và có khi là lập trường dung hòa. Sau đây chúng ta sẽ xem lại cuộc đối thoại này đồng thời rút ra từ đó những bài học cho đời sống đức tin của chúng ta.
Nét đặc trưng của triết học thời trung cổ chính là mối liên hệ mật thiết giữa triết học với tôn giáo. Suy tư triết lý trong giai đoạn này là nổ lực dung hòa niềm tin và lý trí. Với người Hylạp, lý trí là dụng cụ hữu hiệu và sắc bén để tìm hiểu thế giới. Do đó lý trí giữ vai trò then chốt cả trong lãnh vực tôn giáo và việc phượng tự. Trong khi đó, nền văn hóa sémitique thì ngược lại, yếu tố tôn giáo mới là trung tâm điểm của đời sống. Trong nền văn minh này, con người đạt đến sự công chính nhờ tuân phục ý muốn Thiên Chúa. Yếu tố quan trọng nhất để sống khôn ngoan và công chính không phải là hiểu biết của lý trí mà là sự trung tín với Thiên Chúa.
Việc Kitô giáo xuất hiện và phát triển trước tiên trong thế giới của văn hóa Hylạp như Athen, Alexandria và Rôma đã tạo nên cuộc đụng độ giữa đức tin Kitô giáo và triết học. Cuộc đụng độ của hai truyền thống trên đã tạo nên một cuộc đối thoại liên hồi giữa đức tin và lý trí trong suốt thời kỳ triết học trung cổ. Trong cuộc đối thoại này, phần thắng có khi thuộc về lập trường duy tín, khi thì thuộc về duy trí và có khi là lập trường dung hòa. Sau đây chúng ta sẽ xem lại cuộc đối thoại này đồng thời rút ra từ đó những bài học cho đời sống đức tin của chúng ta.
I. Cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí
I.1. Khuynh hướng đề cao đức tin
Tertullien được coi nhà nhà thần học quá khích khi ông chống đồi triết học một cách quyết liệt. Tertullien viết:
I.1. Khuynh hướng đề cao đức tin
Tertullien được coi nhà nhà thần học quá khích khi ông chống đồi triết học một cách quyết liệt. Tertullien viết:
“có gì chung giữa người Kitô hữu và triết gia, giữa môn đồ của Hylạp và môn sinh của nước trời?”. Theo ông các triết gia là tổ phụ của những người lạc đạo. Từ thái độ như vậy, Tertullien khẳng định Đức Tin là điều khác hẳn với lý trí. Đức tin được đặt trên một nền tảng khác hẳn với lý trí: đức tin hướng đến những chân lý mà lý trí không thể thấu hiểu. Đức tin đem lại một chân lý chắc chắn hơn là lý trí: đi theo Đức Kitô, sống theo Tin Mừng, chúng ta không cần phải có những hiểu biết phù phiếm hay những dầy công nghiên cứu.
Trái ngược với lập trường đề cao đức tin của Tertullien, Scott Erigène và Duns Scotus lại đề cao vai trò của lý trí.
Trái ngược với lập trường đề cao đức tin của Tertullien, Scott Erigène và Duns Scotus lại đề cao vai trò của lý trí.
I.2. Khuynh hướng đề cao lý trí
Scott Érigène cho rằng Thiên Chúa đã đặt lý trí vào trong con người như một phương tiện để đi tìm chân lý. Trước khi Kitô giáo xuất hiện, lý trí bị che mờ bởi tội nguyên tổ nên chỉ có thể tìm hiểu vũ trụ và ghi nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa mà thôi. Khi Chúa Kitô đến, chân lý được mạc khải. Với Scot Érigène, mạc khải chỉ là sự trợ giúp, là điều kiện để hướng dẫn lý trí tìm đến chân lý mà thôi. Ông nhìn nhận mạc khải được tỏ bày trong kinh thánh và mọi chân lý phải bắt đầu từ kinh thánh nhưng để hiểu biết kinh thánh và thấu hiểu đức tin phải nhờ đến vai trò của lý trí, một lý trí ngay thẳng được Thiên Chúa soi sáng.
Scot Érigène ngã theo lập trường duy lý khi nói rằng: không ai có thể lên trời nếu không nhờ triết lý. Ông cho rằng những chân lý do Thiên Chúa mạc khải và những kết luận của lý trí siêu hình có cùng một giá trị như nhau. Và Giáo lý Kitô giáo phải được trình bày như một hệ thống tư tưởng có liên hệ với nhau theo luận lý, mỗi thành phần đều được chứng minh một cách hợp lý theo lý trí. Như vậy Scot Érigène đã xem lý trí là nguyên lý căn bản, đóng vai trò duyệt chính thế giá của kinh thánh.
Đồng khuynh hướng đề cao lý trí còn có Duns Scotus. Như các nhà kinh viện khác, Duns Scotus cũng tìm cách dung hòa lý trí và đức tin, nhưng giải đáp của ông thiên về lý trí hơn. Ông cũng công nhận thế giá của kinh thánh và huấn quyền với điều kiện là những điều đó phải phù hợp với lý trí. Duns Scotus luôn cố gắng chứng minh tính cách đáng tin của kinh thánh bằng những lý chứng của lý trí. Vậy với Duns scotus, lý trí có thế giá tuyệt đối, còn sách thánh chỉ có thế giá tương đối tùy theo những điều kiện khác.
Scott Érigène cho rằng Thiên Chúa đã đặt lý trí vào trong con người như một phương tiện để đi tìm chân lý. Trước khi Kitô giáo xuất hiện, lý trí bị che mờ bởi tội nguyên tổ nên chỉ có thể tìm hiểu vũ trụ và ghi nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa mà thôi. Khi Chúa Kitô đến, chân lý được mạc khải. Với Scot Érigène, mạc khải chỉ là sự trợ giúp, là điều kiện để hướng dẫn lý trí tìm đến chân lý mà thôi. Ông nhìn nhận mạc khải được tỏ bày trong kinh thánh và mọi chân lý phải bắt đầu từ kinh thánh nhưng để hiểu biết kinh thánh và thấu hiểu đức tin phải nhờ đến vai trò của lý trí, một lý trí ngay thẳng được Thiên Chúa soi sáng.
Scot Érigène ngã theo lập trường duy lý khi nói rằng: không ai có thể lên trời nếu không nhờ triết lý. Ông cho rằng những chân lý do Thiên Chúa mạc khải và những kết luận của lý trí siêu hình có cùng một giá trị như nhau. Và Giáo lý Kitô giáo phải được trình bày như một hệ thống tư tưởng có liên hệ với nhau theo luận lý, mỗi thành phần đều được chứng minh một cách hợp lý theo lý trí. Như vậy Scot Érigène đã xem lý trí là nguyên lý căn bản, đóng vai trò duyệt chính thế giá của kinh thánh.
Đồng khuynh hướng đề cao lý trí còn có Duns Scotus. Như các nhà kinh viện khác, Duns Scotus cũng tìm cách dung hòa lý trí và đức tin, nhưng giải đáp của ông thiên về lý trí hơn. Ông cũng công nhận thế giá của kinh thánh và huấn quyền với điều kiện là những điều đó phải phù hợp với lý trí. Duns Scotus luôn cố gắng chứng minh tính cách đáng tin của kinh thánh bằng những lý chứng của lý trí. Vậy với Duns scotus, lý trí có thế giá tuyệt đối, còn sách thánh chỉ có thế giá tương đối tùy theo những điều kiện khác.
I.3. Khuynh hướng dung hòa
justin là người Kitô hữu đầu tiên có chủ trương dung hợp triết lý Hy La với mạc khải Kitô giáo. Trong cuốn biện giáo (Apologies) ông cho thấy những điểm tương đồng giữa giáo lý Kitô giáo với các triết thuyết và khẳng định cả hai đều phát sinh từ cùng một gốc là Ngôi Lời của Thiên Chúa (logos). Một mầm móng của Ngôi Lời đã hiện diện trong lý trí của loài người, vì thế các triết gia cũng tìm ra chân, thiện, mỹ. Có điều vì không biết lý trí toàn vẹn (Logos) là đức Kitô nên lắm lúc họ sai lầm. Justin cho rằng nhiều triết gia ngoại giáo đã chịu ảnh hưởng của mạc khải Kitô giáo.
Thánh Clément D’Alexandrie còn táo bạo hơn thánh Justin khi so sánh vai trò của triết học với vai trò của cựu ước: lề luật (kinh thánh cựu ước) dẫn người Do Thái đến với Đức Kitô thế nào thì triết học cũng dẫn đưa người Hylạp tới Đức Kitô như vậy. Thánh nhân nghĩ rằng triết học là một hồng ân Chúa ban cho dân ngoại giống như luật Maisen được ban cho dân Dothái. Tuy nhiên thánh nhân cũng nhấn mạnh triết học không thể thay thế mạc khải, triết học chỉ chuẩn bị tâm hồn để đón nhận và để hiểu nội dung đức tin.
Sau khoảng 9 năm theo giáo phái manichéisme, Augustin kinh nghiệm rằng phải tìm những điểm hợp lý của hành vi đức tin nói chung, cũng như sự tuân phục của lý trí trước quyền bính đặc biệt của Kitô giáo. Từ biến cố trở lại, Augustin coi thế giới của kinh thánh là nguồn mạch chắc chắn hơn mảnh đất của lý luận: đức tin chắc chắn hơn là sự hiểu biết. Với Augustin, đức tin và lý trí có sự liên hệ mật thiết với nhau: Tin tưởng cũng là một hình thái suy tư. Một người không có khả năng suy tư thì cũng không có khả năng tin tưởng. Do đó, tin cũng là một cấp độ hiểu biết. Augustin đã để lại công thức nổi tiếng trong “bài giảng 43” như sau: “intellige ut credas; crede ut intelligas” (hãy tin để hiểu; hãy hiểu để tin). Hãy tin tưởng để rồi suy tư. Nghĩa là triết lý không tách rời với những tin tưởng sâu xa của người tín hữu. Công thức ngược lại, tức là hãy suy tư để rồi tin tưởng cũng có phần đúng lý của nó, nghĩa là lý tính cần phải hoạt động trước hết như điều kiện chuẩn bị để ta có thể nhìn nhận Thiên Chúa bằng tín ngưỡng. Nhưng công thức thứ hai chỉ được sáng tỏ hoàn toàn là nhờ ở công thức thứ nhất. Như vậy tựu trung Augustin chỉ muốn chủ trương rằng khả năng suy luận theo lý trí phải được phục vụ cho sự am tường thêm tín ngưỡng. Và do vậy, ngài thường sử dụng triết lý để minh giải thêm một vài khía cạnh nào đó của giáo lý Kitô giáo.
Anselme là người chịu nhiều ảnh hưởng của Augustin. Vì là một tín đồ hăng say, nên với Anselme, những tín lý của Kitô giáo thì trước hết phải tin đã, rồi mới suy nghĩ và tranh luận sau. Trước hết, ông muốn dùng lý trí của mình để tìm hiểu thêm những điều mình đã tin, để rồi chứng minh những điều mình tin bằng những lý lẽ của trí khôn tự nhiên cho những ai chưa tin. Anselme cho rằng trong những chân lý thuộc kitô giáo, vai trò của đức tin không khác gì vai trò của kinh nghiệm trong việc am hiểu vũ trụ. Do đó ai không tin thì sẽ không bao giờ am hiểu. Tuy nhiên, Anselme đã đề tựa phụ cho quyển Proslogion của ông là Fides quoerens intellectum (đức tin tìm kiếm lý trí), nghĩa là đức tin phải được soi sáng bằng lý trí. Điều này không những không hạ giá lý trí, đức tin còn hướng dẫn lý trí và cung cấp cho nó chất liệu để suy tư.
I.4. Khuynh hướng độc lập
Cũng là người muốn dung hòa giữa đức tin và lý trí nhưng với Thosma vai trò đức tin và lý trí được phân định một cách phân minh hơn trong tư tưởng của Augustin. Không còn phải soi sáng những huyền bí của đức tin bằng lý trí như Augustin, Thomas phân biệt rạch ròi thuộc lĩnh vực lý trí tất cả những chân lý đã biết được hay có thể biết được một cách hiển nhiên bằng kinh nghiệm hay bằng chứng minh; thuộc lãnh vực đức tin tất cả mọi chân lý không biết được bằng hiển nhiên nội tại mà phải bằng mạc khải.
Đức tin vượt quá lý trí trong khả năng đạt tới những đối tượng siêu việt mà một lý trí tự nhiên sâu sắc nhất cũng không thể nào vươn tới. Tuy nhiên, đức tin không vượt quá lý trí về phương diện nhận thức vì xét trong lĩnh vực này, đức tin là một loại kiến thức mờ tối. Niềm tin giúp ta đạt thẳng tới một đối tượng siêu việt nhưng lại không cho ta biết những nẻo đường, trật tự, kết cấu, diễn biến tuần tự để đi đến kết luận đó; còn lý trí thì vượt trội hơn niềm tin ở chỗ soi sáng từng bước hành trình của con người nhưng lại không chắc chắn đạt tới chân lý đích thực và trọn vẹn.
Tuy nhiên không có mâu thuẫn hay tranh chấp giữa chân lý của đức tin và chân lý của lý trí, vì Thiên Chúa là thực tại và chân lý duy nhất chung cho cả đức tin và tri thức. Khi có sự tranh chấp giữa một tín điều và một khẳng định của lý trí thì chỉ vì chân lý tự phụ là hợp lý ấy là một điều sai lầm. Ngay trong trường hợp nhà triết học kiến tạo được một tri thức như một toàn bích bên ngoài đức tin, thì nhà thần học vẫn là người bảo trợ cho nhà triết học. Như thế đối với thomas vai trò của lý trí bị thu hẹp hơn đối với augustin.
II. Những bài học
Bởi vì triết lý và tôn giáo luôn tồn tại và đồng hành cùng với con người nên mối liên hệ giữa đức tin và lý trí cũng có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ sống của người tín hữu. Anh hưởng này không chỉ bao trùm thời kỳ Trung Cổ mà còn liên lụy đến ngày nay. Nhìn lại cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí trong triết học Trung Cổ đồng thời dưới ánh sáng Huấn quyền của Giáo hội ta đã có thể rút ra lập trường của Giáo hội trong vấn đề này. Lập trường này được công đồng Vatican I diễn tả như sau: “Con người không thể nhờ duy chỉ lý trí tự nhiên mà đạt được đức tin hoặc giải đáp những dữ kiện của đức tin. Ngược lại, con người cũng không thể dùng những hiểu biết của đức tin để giải quyết những vấn đề của lý trí, cụ thể là những vấn đề khoa học. Đức tin và lý trí là hai lãnh vực hoàn toàn khác biệt và tự trị đối với nhau. Tuy nhiên điều đó không bao hàm một sự xung đột nào mà con bổ túc cho nhau”. Chính vì thế trong thông điệp đức tin và lý trí, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết "Đức tin và lý trí giống như hai đôi cánh, nhờ đó, tinh thần con người được nâng lên đến chỗ chiêm niệm chân lý".
Như thế, đức tin và lý trí là hai lãnh vực khác nhau và hoạt động theo hai phương thế khác nhau. Tuy nhiên cả hai không hề mâu thuẫn nhau vì xét cho cùng nó có chung một mục đích là đạt tới chân lý đích thực là Thiên Chúa. Con đường của Giáo hội sẽ không phải là con đường duy tín mà cũng không phải là duy lý. Tùy trong từng trường hợp mà ta phải tuân theo tiếng nói của đức tin hay của lý trí. Tuy nhiên, chân lý đích thực ít khi nào chỉ là hoa quả của riêng đức tin hay lý trí. Đức tin và lý trí luôn đồng thời hiện diện bên nhau và thậm chí tồn tại trong nhau để giúp cho con người đạt tới chân lý. Chính vì vậy trong phần này sẽ trình bày về những mối liên hệ sâu xa và nhân quả giữa đức tin và lý trí.
justin là người Kitô hữu đầu tiên có chủ trương dung hợp triết lý Hy La với mạc khải Kitô giáo. Trong cuốn biện giáo (Apologies) ông cho thấy những điểm tương đồng giữa giáo lý Kitô giáo với các triết thuyết và khẳng định cả hai đều phát sinh từ cùng một gốc là Ngôi Lời của Thiên Chúa (logos). Một mầm móng của Ngôi Lời đã hiện diện trong lý trí của loài người, vì thế các triết gia cũng tìm ra chân, thiện, mỹ. Có điều vì không biết lý trí toàn vẹn (Logos) là đức Kitô nên lắm lúc họ sai lầm. Justin cho rằng nhiều triết gia ngoại giáo đã chịu ảnh hưởng của mạc khải Kitô giáo.
Thánh Clément D’Alexandrie còn táo bạo hơn thánh Justin khi so sánh vai trò của triết học với vai trò của cựu ước: lề luật (kinh thánh cựu ước) dẫn người Do Thái đến với Đức Kitô thế nào thì triết học cũng dẫn đưa người Hylạp tới Đức Kitô như vậy. Thánh nhân nghĩ rằng triết học là một hồng ân Chúa ban cho dân ngoại giống như luật Maisen được ban cho dân Dothái. Tuy nhiên thánh nhân cũng nhấn mạnh triết học không thể thay thế mạc khải, triết học chỉ chuẩn bị tâm hồn để đón nhận và để hiểu nội dung đức tin.
Sau khoảng 9 năm theo giáo phái manichéisme, Augustin kinh nghiệm rằng phải tìm những điểm hợp lý của hành vi đức tin nói chung, cũng như sự tuân phục của lý trí trước quyền bính đặc biệt của Kitô giáo. Từ biến cố trở lại, Augustin coi thế giới của kinh thánh là nguồn mạch chắc chắn hơn mảnh đất của lý luận: đức tin chắc chắn hơn là sự hiểu biết. Với Augustin, đức tin và lý trí có sự liên hệ mật thiết với nhau: Tin tưởng cũng là một hình thái suy tư. Một người không có khả năng suy tư thì cũng không có khả năng tin tưởng. Do đó, tin cũng là một cấp độ hiểu biết. Augustin đã để lại công thức nổi tiếng trong “bài giảng 43” như sau: “intellige ut credas; crede ut intelligas” (hãy tin để hiểu; hãy hiểu để tin). Hãy tin tưởng để rồi suy tư. Nghĩa là triết lý không tách rời với những tin tưởng sâu xa của người tín hữu. Công thức ngược lại, tức là hãy suy tư để rồi tin tưởng cũng có phần đúng lý của nó, nghĩa là lý tính cần phải hoạt động trước hết như điều kiện chuẩn bị để ta có thể nhìn nhận Thiên Chúa bằng tín ngưỡng. Nhưng công thức thứ hai chỉ được sáng tỏ hoàn toàn là nhờ ở công thức thứ nhất. Như vậy tựu trung Augustin chỉ muốn chủ trương rằng khả năng suy luận theo lý trí phải được phục vụ cho sự am tường thêm tín ngưỡng. Và do vậy, ngài thường sử dụng triết lý để minh giải thêm một vài khía cạnh nào đó của giáo lý Kitô giáo.
Anselme là người chịu nhiều ảnh hưởng của Augustin. Vì là một tín đồ hăng say, nên với Anselme, những tín lý của Kitô giáo thì trước hết phải tin đã, rồi mới suy nghĩ và tranh luận sau. Trước hết, ông muốn dùng lý trí của mình để tìm hiểu thêm những điều mình đã tin, để rồi chứng minh những điều mình tin bằng những lý lẽ của trí khôn tự nhiên cho những ai chưa tin. Anselme cho rằng trong những chân lý thuộc kitô giáo, vai trò của đức tin không khác gì vai trò của kinh nghiệm trong việc am hiểu vũ trụ. Do đó ai không tin thì sẽ không bao giờ am hiểu. Tuy nhiên, Anselme đã đề tựa phụ cho quyển Proslogion của ông là Fides quoerens intellectum (đức tin tìm kiếm lý trí), nghĩa là đức tin phải được soi sáng bằng lý trí. Điều này không những không hạ giá lý trí, đức tin còn hướng dẫn lý trí và cung cấp cho nó chất liệu để suy tư.
I.4. Khuynh hướng độc lập
Cũng là người muốn dung hòa giữa đức tin và lý trí nhưng với Thosma vai trò đức tin và lý trí được phân định một cách phân minh hơn trong tư tưởng của Augustin. Không còn phải soi sáng những huyền bí của đức tin bằng lý trí như Augustin, Thomas phân biệt rạch ròi thuộc lĩnh vực lý trí tất cả những chân lý đã biết được hay có thể biết được một cách hiển nhiên bằng kinh nghiệm hay bằng chứng minh; thuộc lãnh vực đức tin tất cả mọi chân lý không biết được bằng hiển nhiên nội tại mà phải bằng mạc khải.
Đức tin vượt quá lý trí trong khả năng đạt tới những đối tượng siêu việt mà một lý trí tự nhiên sâu sắc nhất cũng không thể nào vươn tới. Tuy nhiên, đức tin không vượt quá lý trí về phương diện nhận thức vì xét trong lĩnh vực này, đức tin là một loại kiến thức mờ tối. Niềm tin giúp ta đạt thẳng tới một đối tượng siêu việt nhưng lại không cho ta biết những nẻo đường, trật tự, kết cấu, diễn biến tuần tự để đi đến kết luận đó; còn lý trí thì vượt trội hơn niềm tin ở chỗ soi sáng từng bước hành trình của con người nhưng lại không chắc chắn đạt tới chân lý đích thực và trọn vẹn.
Tuy nhiên không có mâu thuẫn hay tranh chấp giữa chân lý của đức tin và chân lý của lý trí, vì Thiên Chúa là thực tại và chân lý duy nhất chung cho cả đức tin và tri thức. Khi có sự tranh chấp giữa một tín điều và một khẳng định của lý trí thì chỉ vì chân lý tự phụ là hợp lý ấy là một điều sai lầm. Ngay trong trường hợp nhà triết học kiến tạo được một tri thức như một toàn bích bên ngoài đức tin, thì nhà thần học vẫn là người bảo trợ cho nhà triết học. Như thế đối với thomas vai trò của lý trí bị thu hẹp hơn đối với augustin.
II. Những bài học
Bởi vì triết lý và tôn giáo luôn tồn tại và đồng hành cùng với con người nên mối liên hệ giữa đức tin và lý trí cũng có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ sống của người tín hữu. Anh hưởng này không chỉ bao trùm thời kỳ Trung Cổ mà còn liên lụy đến ngày nay. Nhìn lại cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí trong triết học Trung Cổ đồng thời dưới ánh sáng Huấn quyền của Giáo hội ta đã có thể rút ra lập trường của Giáo hội trong vấn đề này. Lập trường này được công đồng Vatican I diễn tả như sau: “Con người không thể nhờ duy chỉ lý trí tự nhiên mà đạt được đức tin hoặc giải đáp những dữ kiện của đức tin. Ngược lại, con người cũng không thể dùng những hiểu biết của đức tin để giải quyết những vấn đề của lý trí, cụ thể là những vấn đề khoa học. Đức tin và lý trí là hai lãnh vực hoàn toàn khác biệt và tự trị đối với nhau. Tuy nhiên điều đó không bao hàm một sự xung đột nào mà con bổ túc cho nhau”. Chính vì thế trong thông điệp đức tin và lý trí, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết "Đức tin và lý trí giống như hai đôi cánh, nhờ đó, tinh thần con người được nâng lên đến chỗ chiêm niệm chân lý".
Như thế, đức tin và lý trí là hai lãnh vực khác nhau và hoạt động theo hai phương thế khác nhau. Tuy nhiên cả hai không hề mâu thuẫn nhau vì xét cho cùng nó có chung một mục đích là đạt tới chân lý đích thực là Thiên Chúa. Con đường của Giáo hội sẽ không phải là con đường duy tín mà cũng không phải là duy lý. Tùy trong từng trường hợp mà ta phải tuân theo tiếng nói của đức tin hay của lý trí. Tuy nhiên, chân lý đích thực ít khi nào chỉ là hoa quả của riêng đức tin hay lý trí. Đức tin và lý trí luôn đồng thời hiện diện bên nhau và thậm chí tồn tại trong nhau để giúp cho con người đạt tới chân lý. Chính vì vậy trong phần này sẽ trình bày về những mối liên hệ sâu xa và nhân quả giữa đức tin và lý trí.
II.1. Triết lý chuẩn bị và đào sâu đức tin
Với các tín hữu thời tiên khởi và trong các thế kỷ đầu Kitô giáo, thế giới của hiểu biết bị xem là phù phiếm và nguy hiểm. Tuy nhiên Clêmentê đã làm một cuộc cách mạng khi chủ trương rằng khước từ mọi hiểu biết tự nhiên là một thái độ không có nền tảng. Ông cho rằng chính Thiên Chúa đã chọn nền triết lý của dân ngoại như một con đường đặc biệt để dẫn đưa về với Đức Kitô cũng như đã ban bố lề luật cho dân Dothái.
Quả thật, từ lâu con người đã khắc khoải với những câu hỏi mang tính triết lý như con người là ai, con người từ đâu đến và rồi con người sẽ đi về đâu. Cuộc sống này có ý nghĩa gì ? Trong nổ lực đi tìm kiếm câu trả lời, nhiều người đã cảm thấy bế tắc để rồi chỉ khi đến với tôn giáo họ mới tìm được sự thỏa mãn. Thực vậy, con người không thể tự mình hay cậy dựa vào khả năng suy nghĩ của lý trí để trả lời những vấn nạn trên. Đây là những câu hỏi không phải chỉ để suy nghĩ và trả lời nhưng là những câu hỏi để sống và cảm nghiệm. Do đó, chỉ có niềm tin vào tôn giáo mới có thể cho con người sống và cảm nghiệm những điều trên.
Trong cuộc hành trình tìm kiếm chân lý, lý trí con người phải qua nhiều giai đoạn. Trong giai đoạn đầu tiên, lý trí cần có sự trợ giúp của triết lý, nhờ đó con người có thể bước sang giai đoạn thứ hai là đức tin. Đọc lại tiểu sử của các giáo phụ ta sẽ thấy rõ mối liên hệ trên.
Thánh Justin sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo tại Palestin. Với niềm khao khát tìm kiếm chân lý, thánh nhân đã tìm đến với các triết gia khắc kỷ, sau đó lại đến với một triết gia theo khuynh hướng Aristote, làm đồ đệ của phái Pythagore, sau cùng ngài đến với phái Platon và mới thấy được rằng nơi đây ngài có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Với một tâm hồn khao khát chân lý, Justin đã đi từ nền triết lý này sang nền triết lý khác nhưng vẫn không thỏa mãn được khao khát mãnh liệt trong ông. Sau cùng Justin mới hiểu ra rằng một nền triết lý đích thực phải mang lại hạnh phúc và nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa.
Hành trình đến với niềm tin tôn giáo qua con đường triết học lại càng đúng hơn với thánh Augustin. Với một tâm hồn nhạy cảm và một óc lý luận sáng suốt, ngài đã khắc khoải cất bước đi tìm chân lý. Với đầu óc lý luận sắc bén, ngài dần nhận ra những lỗ hỏng, những sai lầm trong các giáo phái lúc bấy giờ. Ngài cảm thấy không thỏa mãn với những triết lý không dẫn đến Thiên Chúa. Tâm hồn ngài luôn bồi hồi xao xuyến cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa. Thánh nhân đã đúc kết vấn đề trong câu nói nổi tiếng “tin để hiểu và hiểu để tin”. Con người có thể tìm đến với đức tin qua nẻo đường của suy tư, của triết học nhưng như thế không có nghĩa là đức tin xuất phát từ lý trí. Trong nổ lực chuẩn bị, khao khát tìm kiếm của mình, lý trí sẽ dọn chỗ cho đức tin. “Hiểu để tin” còn là quá trình học hỏi sau khi đã nhận đức tin, để làm cho đức tin sáng tỏ và lan tỏa trong nhiều lãnh vực của đời sống. Như thế vai trò của lý trí xuất hiện trong cả hai giai đoạn: trước và sau khi tin.
Niềm tin Kitô giáo không phải là nhắm mắt tin theo một số các giáo điều nhưng là một đức tin sống động và thăng tiến không ngừng. Nếu không có học hỏi, con người không thể hiểu những giáo lý của đức tin. Một đức tin chính chắn cần phải biết lãnh hội những tư tưởng đúng và bác bỏ những tư tưởng sai lạc. Việc đào sâu đức tin này không thể không cần đến triết lý.
Trong giai đoạn thứ hai này, triết lý không còn dò dẫm trong đêm tối nữa nhưng nó sẽ đồng hành cùng đức tin. Lý trí sẽ đặt ra những câu hỏi, những vấn nạn trong đời sống tôn giáo và rồi sẽ tìm hiểu và trả lời nó dưới sự soi sáng của đức tin. Lý trí sẽ được đức tin soi dẫn để lý giải về kho tàng mạc khải. Đức tin giải phóng và bảo vệ lý trí khỏi những sai lầm. Lý trí có thể đạt tới một số chân lý đức tin, nhưng cần phải có sự soi sáng của mạc khải.
Với các tín hữu thời tiên khởi và trong các thế kỷ đầu Kitô giáo, thế giới của hiểu biết bị xem là phù phiếm và nguy hiểm. Tuy nhiên Clêmentê đã làm một cuộc cách mạng khi chủ trương rằng khước từ mọi hiểu biết tự nhiên là một thái độ không có nền tảng. Ông cho rằng chính Thiên Chúa đã chọn nền triết lý của dân ngoại như một con đường đặc biệt để dẫn đưa về với Đức Kitô cũng như đã ban bố lề luật cho dân Dothái.
Quả thật, từ lâu con người đã khắc khoải với những câu hỏi mang tính triết lý như con người là ai, con người từ đâu đến và rồi con người sẽ đi về đâu. Cuộc sống này có ý nghĩa gì ? Trong nổ lực đi tìm kiếm câu trả lời, nhiều người đã cảm thấy bế tắc để rồi chỉ khi đến với tôn giáo họ mới tìm được sự thỏa mãn. Thực vậy, con người không thể tự mình hay cậy dựa vào khả năng suy nghĩ của lý trí để trả lời những vấn nạn trên. Đây là những câu hỏi không phải chỉ để suy nghĩ và trả lời nhưng là những câu hỏi để sống và cảm nghiệm. Do đó, chỉ có niềm tin vào tôn giáo mới có thể cho con người sống và cảm nghiệm những điều trên.
Trong cuộc hành trình tìm kiếm chân lý, lý trí con người phải qua nhiều giai đoạn. Trong giai đoạn đầu tiên, lý trí cần có sự trợ giúp của triết lý, nhờ đó con người có thể bước sang giai đoạn thứ hai là đức tin. Đọc lại tiểu sử của các giáo phụ ta sẽ thấy rõ mối liên hệ trên.
Thánh Justin sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo tại Palestin. Với niềm khao khát tìm kiếm chân lý, thánh nhân đã tìm đến với các triết gia khắc kỷ, sau đó lại đến với một triết gia theo khuynh hướng Aristote, làm đồ đệ của phái Pythagore, sau cùng ngài đến với phái Platon và mới thấy được rằng nơi đây ngài có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Với một tâm hồn khao khát chân lý, Justin đã đi từ nền triết lý này sang nền triết lý khác nhưng vẫn không thỏa mãn được khao khát mãnh liệt trong ông. Sau cùng Justin mới hiểu ra rằng một nền triết lý đích thực phải mang lại hạnh phúc và nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa.
Hành trình đến với niềm tin tôn giáo qua con đường triết học lại càng đúng hơn với thánh Augustin. Với một tâm hồn nhạy cảm và một óc lý luận sáng suốt, ngài đã khắc khoải cất bước đi tìm chân lý. Với đầu óc lý luận sắc bén, ngài dần nhận ra những lỗ hỏng, những sai lầm trong các giáo phái lúc bấy giờ. Ngài cảm thấy không thỏa mãn với những triết lý không dẫn đến Thiên Chúa. Tâm hồn ngài luôn bồi hồi xao xuyến cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa. Thánh nhân đã đúc kết vấn đề trong câu nói nổi tiếng “tin để hiểu và hiểu để tin”. Con người có thể tìm đến với đức tin qua nẻo đường của suy tư, của triết học nhưng như thế không có nghĩa là đức tin xuất phát từ lý trí. Trong nổ lực chuẩn bị, khao khát tìm kiếm của mình, lý trí sẽ dọn chỗ cho đức tin. “Hiểu để tin” còn là quá trình học hỏi sau khi đã nhận đức tin, để làm cho đức tin sáng tỏ và lan tỏa trong nhiều lãnh vực của đời sống. Như thế vai trò của lý trí xuất hiện trong cả hai giai đoạn: trước và sau khi tin.
Niềm tin Kitô giáo không phải là nhắm mắt tin theo một số các giáo điều nhưng là một đức tin sống động và thăng tiến không ngừng. Nếu không có học hỏi, con người không thể hiểu những giáo lý của đức tin. Một đức tin chính chắn cần phải biết lãnh hội những tư tưởng đúng và bác bỏ những tư tưởng sai lạc. Việc đào sâu đức tin này không thể không cần đến triết lý.
Trong giai đoạn thứ hai này, triết lý không còn dò dẫm trong đêm tối nữa nhưng nó sẽ đồng hành cùng đức tin. Lý trí sẽ đặt ra những câu hỏi, những vấn nạn trong đời sống tôn giáo và rồi sẽ tìm hiểu và trả lời nó dưới sự soi sáng của đức tin. Lý trí sẽ được đức tin soi dẫn để lý giải về kho tàng mạc khải. Đức tin giải phóng và bảo vệ lý trí khỏi những sai lầm. Lý trí có thể đạt tới một số chân lý đức tin, nhưng cần phải có sự soi sáng của mạc khải.
II.2. Triết lý bảo vệ và trình bày đức tin
Bên cạnh việc khởi đầu và đào sâu đức tin, lý trí còn góp phần trong việc bảo vệ và trình bày đức tin. Trước hết, triết lý cần thiết để bảo vệ đức tin chống lại những người lạc giáo. Thánh Clemente nói: khi ngươi mang trên người những chiếc đai của triết lý, đức tin của ngươi sẽ không sợ bị ngụy biện tấn công. Thời kỳ Trung Cổ cũng chính là thời kỳ xuất hiện nhiều giáo phái và lạc thuyết. Chính vì vậy đa số các giáo phụ hay các triết gia sau này đã ra sức bảo vệ giáo lý tinh ròng của Giáo hội với những lý luận hết sức chặt chẽ và thuyết phục.
Thánh Justin được coi là người đầu tiên dung hợp triết lý Hy La với mạc khải Kitô giáo. Do đó sau khi trở lại, ngài đã soạn nhiều sách biện minh cho chân lý Kitô giáo. Trong số đó có hai bộ “Minh giáo” được soạn ra để bác bỏ những điều vu khống cho Kitô giáo đang phổ biến trong dân chúng. Ngoài ra còn có cuốn “Đối thoại” nhằm biện hộ cho Kitô giáo đối với Dothái giáo.
Thánh Clemente cũng đề lại nhiều tác phẩm phê bình việc phụng tự đối với các thần, nêu lên những sai lầm của các triết gia về vấn đề Thượng Đế.
Với một trực cảm tâm linh mạnh mẽ và một cuộc đời trôi nổi, thánh Augustin đã nếm đủ mùi vị của các lạc giáo. Chính ngài đã ngâm mình trong giáo phái Manichée chín năm nên sau khi trở lại niềm tin Kitô giáo, thánh nhân đã sử dụng những lập luận triết học để chống lại giáo phái này và cả phái Hoài Nghi.
Với thánh Thomas, ngài để lại cho chúng ta một bộ Tổng Luận chống Lương Dân (Summa contra gentiles), đây là một tác phẩm tùy cảnh dành cho những vị truyền giáo trong thế giới Hồi Giáo và cũng nhắm chung cho những người sai lạc đường hướng. Thánh nhân cũng nhấn mạnh để có thể đối thoại với người lương dân cần phải biết trình bày giáo lý Kitô giáo một cách rõ ràng và khúc chiết. Triết lý sẽ giúp chúng ta làm điều này. Thánh clemente nói: nếu có ai đi tìm sự khôn ngoan thì cần phải trình bày cho họ những điều hợp lý và quen thuộc với họ, để qua chính khẳng định của họ, họ từ từ được dẫn tới đức tin trong chân lý.
Ngày nay, trình độ con người đã tiến bộ rất nhiều. Chúng ta không thể trình bày niềm tin chỉ dựa theo cảm nhận bản thân nhưng phải lý luận bằng những phương thế của triết học. Chính Giáo hội đã nhìn nhận “nơi triết học một phương cách nhận biết những chân lý nền tảng, liên quan đến cuộc sống của con người. Đồng thời Giáo hội coi triết học như một trợ lực không thể thiếu để thấu hiểu đức tin và để truyền thông chân lý của Tin mừng cho những ai chưa biết đến” .
II.3. Đức tin định hướng cho triết lý
Tự sức mình, triết lý có thể nhận biết những chân lý tự nhiên nhưng nó hoàn toàn bất lực để có thể tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Sau biến cố sa ngã, lý trí con người gặp phải những giới hạn nhất định trong việc nhận biết Thiên Chúa, do đó “lý trí cần được đức tin soi sáng để giải thoát khỏi những mong manh và những giới hạn phát sinh do sự bất tuân của tội lỗi, và tìm được sức mạnh cần thiết để vươn mình lên đến chỗ nhận biết mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba ngôi.”
Trên con đường tìm kiếm chân lý, nhờ ánh sáng đức tin, lý trí sẽ có được những cột móc chỉ đường vững chắc, có thể giúp con người tìm thấy lời giải đáp cho những thắc mắc của lý trí, nhất là với những thắc mắc mà lý trí không thể nào đạt tới được. Vì Chỉ một mình đức tin mới cho chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm và giúp ta thấu hiểu mầu nhiệm cho mạch lạc.
Nếu lý tri mất sự trợ lực của đức tin thì sẽ đi theo những con đường nhánh, liều mình đánh mất cứu cánh của mình. Ngược lại nếu đức tin thiếu lý trí sẽ rơi vào tình trạng chỉ chú ý đến tình cảm và kinh nghiệm, do đó có nguy cơ không còn là mệnh đề phổ quát.
Cũng vậy, dưới ánh sáng đức tin, Huấn quyền của Giáo Hội có thể và phải thi hành quyền biện phân phê phán riêng biệt của mình đối với những triết học, và những chủ trương tương phản với đạo lý Kitô giáo . Trước hết nhiệm vụ của Huấn quyền là chỉ cho thấy những tiền đề và những kết luận triết lý nào không phù hợp với chân lý mặc khải, do đó theo quan điểm đức tin đưa ra những đòi hỏi buộc triết học phải theo. Vì những gì Giáo hội trình bày cho con người không do sự suy tư riêng của Giáo hội, nhưng là kiến thức đã được đón nhận từ lời Thiên Chúa trong đức tin (1 Tx 2,13).
Bên cạnh việc khởi đầu và đào sâu đức tin, lý trí còn góp phần trong việc bảo vệ và trình bày đức tin. Trước hết, triết lý cần thiết để bảo vệ đức tin chống lại những người lạc giáo. Thánh Clemente nói: khi ngươi mang trên người những chiếc đai của triết lý, đức tin của ngươi sẽ không sợ bị ngụy biện tấn công. Thời kỳ Trung Cổ cũng chính là thời kỳ xuất hiện nhiều giáo phái và lạc thuyết. Chính vì vậy đa số các giáo phụ hay các triết gia sau này đã ra sức bảo vệ giáo lý tinh ròng của Giáo hội với những lý luận hết sức chặt chẽ và thuyết phục.
Thánh Justin được coi là người đầu tiên dung hợp triết lý Hy La với mạc khải Kitô giáo. Do đó sau khi trở lại, ngài đã soạn nhiều sách biện minh cho chân lý Kitô giáo. Trong số đó có hai bộ “Minh giáo” được soạn ra để bác bỏ những điều vu khống cho Kitô giáo đang phổ biến trong dân chúng. Ngoài ra còn có cuốn “Đối thoại” nhằm biện hộ cho Kitô giáo đối với Dothái giáo.
Thánh Clemente cũng đề lại nhiều tác phẩm phê bình việc phụng tự đối với các thần, nêu lên những sai lầm của các triết gia về vấn đề Thượng Đế.
Với một trực cảm tâm linh mạnh mẽ và một cuộc đời trôi nổi, thánh Augustin đã nếm đủ mùi vị của các lạc giáo. Chính ngài đã ngâm mình trong giáo phái Manichée chín năm nên sau khi trở lại niềm tin Kitô giáo, thánh nhân đã sử dụng những lập luận triết học để chống lại giáo phái này và cả phái Hoài Nghi.
Với thánh Thomas, ngài để lại cho chúng ta một bộ Tổng Luận chống Lương Dân (Summa contra gentiles), đây là một tác phẩm tùy cảnh dành cho những vị truyền giáo trong thế giới Hồi Giáo và cũng nhắm chung cho những người sai lạc đường hướng. Thánh nhân cũng nhấn mạnh để có thể đối thoại với người lương dân cần phải biết trình bày giáo lý Kitô giáo một cách rõ ràng và khúc chiết. Triết lý sẽ giúp chúng ta làm điều này. Thánh clemente nói: nếu có ai đi tìm sự khôn ngoan thì cần phải trình bày cho họ những điều hợp lý và quen thuộc với họ, để qua chính khẳng định của họ, họ từ từ được dẫn tới đức tin trong chân lý.
Ngày nay, trình độ con người đã tiến bộ rất nhiều. Chúng ta không thể trình bày niềm tin chỉ dựa theo cảm nhận bản thân nhưng phải lý luận bằng những phương thế của triết học. Chính Giáo hội đã nhìn nhận “nơi triết học một phương cách nhận biết những chân lý nền tảng, liên quan đến cuộc sống của con người. Đồng thời Giáo hội coi triết học như một trợ lực không thể thiếu để thấu hiểu đức tin và để truyền thông chân lý của Tin mừng cho những ai chưa biết đến” .
II.3. Đức tin định hướng cho triết lý
Tự sức mình, triết lý có thể nhận biết những chân lý tự nhiên nhưng nó hoàn toàn bất lực để có thể tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Sau biến cố sa ngã, lý trí con người gặp phải những giới hạn nhất định trong việc nhận biết Thiên Chúa, do đó “lý trí cần được đức tin soi sáng để giải thoát khỏi những mong manh và những giới hạn phát sinh do sự bất tuân của tội lỗi, và tìm được sức mạnh cần thiết để vươn mình lên đến chỗ nhận biết mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba ngôi.”
Trên con đường tìm kiếm chân lý, nhờ ánh sáng đức tin, lý trí sẽ có được những cột móc chỉ đường vững chắc, có thể giúp con người tìm thấy lời giải đáp cho những thắc mắc của lý trí, nhất là với những thắc mắc mà lý trí không thể nào đạt tới được. Vì Chỉ một mình đức tin mới cho chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm và giúp ta thấu hiểu mầu nhiệm cho mạch lạc.
Nếu lý tri mất sự trợ lực của đức tin thì sẽ đi theo những con đường nhánh, liều mình đánh mất cứu cánh của mình. Ngược lại nếu đức tin thiếu lý trí sẽ rơi vào tình trạng chỉ chú ý đến tình cảm và kinh nghiệm, do đó có nguy cơ không còn là mệnh đề phổ quát.
Cũng vậy, dưới ánh sáng đức tin, Huấn quyền của Giáo Hội có thể và phải thi hành quyền biện phân phê phán riêng biệt của mình đối với những triết học, và những chủ trương tương phản với đạo lý Kitô giáo . Trước hết nhiệm vụ của Huấn quyền là chỉ cho thấy những tiền đề và những kết luận triết lý nào không phù hợp với chân lý mặc khải, do đó theo quan điểm đức tin đưa ra những đòi hỏi buộc triết học phải theo. Vì những gì Giáo hội trình bày cho con người không do sự suy tư riêng của Giáo hội, nhưng là kiến thức đã được đón nhận từ lời Thiên Chúa trong đức tin (1 Tx 2,13).
Kết luận
Tóm lại ta thấy đức tin không hủy hoại kiến thức nhưng còn bảo tồn và nâng nó lên một mục đích cao hơn; ngước lại, sự hiểu biết của con người cũng không đáng làm cho đức tin sợ hãi. Đức tin và lý trí là hai hình thức hiểu biết khác biệt nhau, với mục đích và đối tượng khác nhau. Do đó, đức tin và lý trí không loại bỏ nhau nhưng cùng hướng về một sự hiểu biết thâm sâu cao cả hơn, đó là sự kết hợp với chân lý là Thiên Chúa.
Tuy nhiên, sự cứu rỗi của con người lại tùy thuộc vào sự hiểu biết Thiên Chúa, mà sự hiểu biết này chỉ thủ đắc được cách chắc chắn nhờ mạc khải. Hay nói cách khác, đức tin vẫn là điều tối cần cho sự sống đời đời của con người. Trong Kitô giáo, không phải chỉ những người có khả năng suy tư triết lý mới có thể tìm được con đường giải thoát nhưng là ơn cứu độ dánh cho những người bé mọn tầm thường (Mt 11, 25-26). Như vậy, điều kiện để đón nhận ơn cứu độ không phải là sự khôn ngoan, nhưng là niềm tin, không phải là kỹ thuật thanh luyện nhưng là lòng trung tín, không phải là bị chinh phục do sự khéo léo của ngôn ngữ nhưng là do sức mạnh của Thánh thần. Yếu tố nền tảng của Kitô giáo là ân sủng thần linh, ngược lại với đức tin căn bản của triết học hyla là sự khôn ngoan./.
Tóm lại ta thấy đức tin không hủy hoại kiến thức nhưng còn bảo tồn và nâng nó lên một mục đích cao hơn; ngước lại, sự hiểu biết của con người cũng không đáng làm cho đức tin sợ hãi. Đức tin và lý trí là hai hình thức hiểu biết khác biệt nhau, với mục đích và đối tượng khác nhau. Do đó, đức tin và lý trí không loại bỏ nhau nhưng cùng hướng về một sự hiểu biết thâm sâu cao cả hơn, đó là sự kết hợp với chân lý là Thiên Chúa.
Tuy nhiên, sự cứu rỗi của con người lại tùy thuộc vào sự hiểu biết Thiên Chúa, mà sự hiểu biết này chỉ thủ đắc được cách chắc chắn nhờ mạc khải. Hay nói cách khác, đức tin vẫn là điều tối cần cho sự sống đời đời của con người. Trong Kitô giáo, không phải chỉ những người có khả năng suy tư triết lý mới có thể tìm được con đường giải thoát nhưng là ơn cứu độ dánh cho những người bé mọn tầm thường (Mt 11, 25-26). Như vậy, điều kiện để đón nhận ơn cứu độ không phải là sự khôn ngoan, nhưng là niềm tin, không phải là kỹ thuật thanh luyện nhưng là lòng trung tín, không phải là bị chinh phục do sự khéo léo của ngôn ngữ nhưng là do sức mạnh của Thánh thần. Yếu tố nền tảng của Kitô giáo là ân sủng thần linh, ngược lại với đức tin căn bản của triết học hyla là sự khôn ngoan./.
Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013
Lên đường với Đức Maria
Kể từ sau biến cố truyền tin, mỗi lần tin mừng nhắc đến Mẹ đều gắn liền với những cuộc hành trình. Trước hết là hành trình thăm viếng người chị họ Elisabet rồi đến chuyến đi Bêlem ; từ Bêlem sang Ai cập rồi lại trở về Nazaret ; từ Nazaret lên Giêrusalem lúc Chúa 12 tuổi ; từ tiệc cưới Cana đến cuộc khổ hình trên thập giá ; v.v.. Chính vì vậy, lên đường là một hình ảnh đẹp để chiêm ngưỡng, suy ngắm và noi theo. Ở đây chúng ta cùng lên đường với Mẹ trong cuộc hành trình đầu tiên.
1. Hình ảnh Mẹ lên đường.
Ø Lên đường để làm gì ?
Biến cố truyền tin là bước ngoặc lớn trong cuộc đời Mẹ. Qua biến cố đó Mẹ được thiên thần ca ngợi là Đấng đầy ân sủng vì có Thiên Chúa ở cùng (Lc 1, 28) và quan trọng hơn là Mẹ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai … Người sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao (x.Lc 1, 31). Một thiếu nữ thôn quê nay lại được chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa. Đây là một ân huệ, một niềm vui quá lớn. Thiếu nữ không biết nói gì hơn ngoài hai tiếng “xin vâng” khiêm nhường để tín thác. Cũng trong biến cố đó thiên thần báo cho Mẹ biết người chị họ cũng đã thụ thai được sáu tháng. Đây cũng là một niềm vui cần được chia sẻ. Vì vậy ta có thể thấy hành trình lên đường của Mẹ nhằm hai mục đích.
Trước hết là để chia sẻ và loan báo niềm vui của mình, hay nói cách khác là mang Chúa đến cho người khác. Thật vậy, Thiên Chúa nhập thể là niềm vui quá lớn không những với Mẹ mà còn cho cả thế giới. Vì vậy Mẹ đâu có quyền giữ lấy cho riêng mình. Niềm vui cần được chia sẻ.
Mục đích thứ hai là hiệp thông với tha nhân. Nghe tin người chị họ được Chúa đoái thương, Mẹ đã lên đường để gặp gỡ, san sẽ, chúc mừng và phục vụ. Cùng là phụ nữ, lại có họ hàng với nhau nên hơn ai hết Mẹ hiểu rõ tâm trạng và niềm vui của chị nên đã hăng hái lên đường.
Ø Lên đường như thế nào ?
Mẹ đã “vội vã lên đường”. Lên đường cách vội vã là lời đáp trả của Mẹ. Một lời đáp trả mau mắn và dứt khoát, không so đó tính toán. Đó chính là những đặc tính quan trọng của người lên đường. Có như vậy thì tin vui mới được loan đi cách trọn vẹn.
“Đi đến miền núi”. Hành trình lên miền núi bao giờ cũng là hành trình đầy khó khăn và thử thách. Cũng vậy, con đường của người loan báo tin vui chẳng bao giờ là con đường bằng phẳng êm ái. Ngược lại, đó là con đường đầy chông gai và cạm bẫy. Hành trình càng gian nan nguy hiểm càng đòi hỏi người lữ hành nhiều phẩm chất hơn. Chính vì vậy người lữ hành cần chuẩn bị một số hành trang cần thiết.
Ø Hành trình Mẹ mang theo.
Niềm vui có Chúa : niềm vui có Chúa là hành trang quan trọng nhất trong hành trình cuộc đời. Mẹ Maria, phận nữ nhi yếu ớt nhưng lại cất bước hăng say lên miền núi là hình ảnh đẹp cho ta noi theo. Chính niềm vui có Ngôi Hai Thiên Chúa hiện diện trong lòng đã nâng bước chân Mẹ, giúp Mẹ vượt qua chặng đường khó khăn.
Bên cạnh niềm vui có chúa, Mẹ còn một hành trang khác làm động lực : đó là khát vọng được chia sẻ. Khát vọng chia sẻ là một khao khát vượt ra khỏi chính mình và lớn lên trong tương quan với người khác. Khát vọng chia sẻ xuất phát từ tình yêu, sự quan tâm và trao ban.
Nhìn lại hình ảnh Mẹ trên chặng đường viếng thăm người chị họ, là cơ hội để chúng ta tiếp bước trên những chặng đường phía trước.
2. Hành trình của chúng ta.
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Ngày chúng ta chính thức gia nhập Giáo Hội qua bí tích Thanh Tảy là ngày chúng ta nhận lãnh các sứ vụ ngôn sứ, tiên tri và vương đế. Những sứ vụ này yêu cầu chúng ta phải lên đường mỗi ngày. Sẽ có những hành trình cho cả cuộc đời, cho từng giai đoạn, từng biến cố và từng ngày. Tuy nhiên điều quan trọng là chúng ta phải dám lên đường. Cuộc lên đường của chúng ta hôm nay cũng phải có mục đích và những hành trang như của Mẹ. Đó là lên đường mang Chúa đến cho người khác đồng thời chia sẻ cuộc sống của họ.
Hơn nữa hành trình của chúng ta ngày nay diễn ra dưới muôn vàn dáng vẻ và cách thức khác nhau. Vì vậy quyết định lên đường cũng đòi hỏi nhiều hy sinh cố gắng hơn. Vì thế để lên đường bạn cần phải :
Chuẩn bị : Chuẩn bị là con đường an toàn và nằm trong tầm tay của chúng ta. Nhất là khi đối diện với xã hội đầy biến động hôm nay, chúng ta cần chuẩn bị trên nhiều phương diện. Chẳng phải vô tình mà có biến cố truyền tin và lời đáp trả xin vâng. Từ khởi thủy lịch sử loài người, ngay khi con người sa ngã, Thiên Chúa đã có một hoạch định và để thực hiện nó, Thiên Chúa đã mạc khải dần dần qua suốt chiều dài lịch sử Israen. Cũng chẳng phải bổng dưng mà Đức Maria đáp lời Fiát. Chắc chắn Mẹ đã trải qua những năm tháng cầu nguyện và tự nguyện tận hiến đời mình cho Chúa. Mẹ đã qua một thời gian dài sống thân mật với Thiên Chúa mới có thể thưa tiếng xin vâng đầy tin tưởng và phó thác như vậy.
Câu châm ngôn của thánh Tôma cũng diễn tả rất hay điều này: chiêm niệm và trao cho người khác hoa quả của việc chiêm niệm. Chiêm niệm chính là sự chuẩn bị tuyệt vời cho sứ vụ lên đường rao giảng chân lý.
Mục đích: Trong sự chuẩn bị đã bao hàm luôn cả mục đích hướng tới. Nếu lên đường mà không có mục đích thì chỉ là những bước chân lạc lõng vô định. Mục đích mang lại cho hành trình ý nghĩa. Thực vậy, trong xã hội bị xem là khủng hoảng ý nghĩa thì việc đặt ra một mục đích sẽ giữ gìn bước chân ta khỏi lạc lối. Nhiều bạn trẻ băn khoăn lo lắng không biết sau này mình sẽ làm gì ! Cuộc sống sau khi ra trường sẽ như thế nào ? Đâu là hình ảnh của mình trong mười, mười lăm năm sau ? Những lo âu trên sẽ trở nên vô ích nếu ta chỉ biết chờ đợi thời gian. Thời gian sẽ tới nhưng đừng ngồi đó khoanh tay chờ. Ngay hôm nay hãy đặt ra mục tiêu và sống cụ thể mục tiêu đó hàng ngày.
Ra khỏi tình trạng hiện thời : Ta không thể lên đường mà vẫn khư khư giữ lấy tình trạng hiện thời. Tình trạng hiện thời có thể là ổn định và quen thuộc. Thế nhưng chắc chắn nó không phải là trạng thái trọn hảo. Chúa Giêsu vẫn luôn mời gọi chúng ta hãy nên hoàn thiện. Hơn nữa một mục tiêu được đặt ra thì chắc chắn phải tốt hơn và ta chưa đạt được, chính vì vậy, đổi mới luôn là lời mời gọi khẩn thiết. Sự đổi mới có thể là thay đổi một thói quen, một cách nhìn, một quan điểm. Biết đâu qua những thay đổi nho nhỏ như vậy sẽ giúp bạn khám phá nhiều điều thú vị. Ra khỏi tình trạng hiện thời đòi hỏi bạn phải can đảm và hy sinh. Nếu cứ giữ lấy những tật xấu hay những thói quen cố hữu thì làm sao bạn thanh thản cất bước được. Cây đời bạn chỉ có thể trổ sinh hoa trái một khi bạn dám can đảm cắt tỉa những cành là rừơm rà không cần thiết.
Và cuối cùng nhưng rất quan trọng, đó là tâm tình phó thác. Dù có chuẩn bị cách nào thì cuộc hành trình vẫn còn trước mắt. Lên đường là tiến về phía trước, về những đoạn đường cam go. Và như vậy, sẽ chẳng bao giờ bạn chuẩn bị cho đủ. Vậy tôi có dám lên đường ngay khi xem ra vẫn còn thiếu thốn ? Quả thật, hành trang thì có nhiều nhưng quan trọng hơn cả là tình yêu Đức Kitô và lòng nhiệt thành. Ngày nay người ta nói nhiều đến hai chữ dấn thân. Đâu là nguyên nhân của tình trạng ngại dấn thân ? Vì thiếu những đảm bảo cần thiết ? Chắc chắn không phải vậy. Vì nếu mọi thứ đều đầy đủ thì còn gì là dấn thân !
Hơn nữa, đời sống ngày nay đã được cải thiện rất nhiều. Mọi nhu cầu cần thiết dường như đã được đáp ừng đầy đủ, thậm chí một số còn vượt nhu cầu ! Vậy thì đâu là nguyên nhân ? Chắc chắn là thiếu tình mến và lòng nhiệt thành. Tình yêu chính là nguyên nhân và là động lực thúc đẩy hành động. Thánh Augustinô cũng đã nói hãy cứ yêu đi rồi bạn sẽ biết cần phải làm gì. Vì chưa tận hưởng được một tình yêu trọn vẹn và sung mãn nên ta chưa thấy được nhu cầu phải san sẻ tình yêu đó. Vì thiếu nhiệt tình nên ta ngại khó, không dám bước đi trên những đoạn đường bấp bênh. Vì thiếu thốn tình mến nên ta không đủ can đảm cắt tỉa chính mình. Tóm lại để lên đường chúng ta cần phải để cho “tình yêu Đức Kitô thúc bách” (2Cr 5,4).
- Kết
Việc lên đường của Mẹ đã mang lại một kết quả tuyệt vời : cả Mẹ và bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, Gioan thì nhảy mừng trong bụng mẹ. Mẹ đúng là nhà truyền giáo, là người mang tin vui. sự tác động của Chúa Thánh Thần trên cả hai chị em là một kết quả tuyệt vời. Kết quả này là dấu chỉ phân định một việc làm có hợp với ý Chúa hay không. Đáo cũng là câu hỏi để tôi tự hỏi mình : Là người loan truyền chân lý, tôi đã thực sự để chân lý giải thoát mình và tha nhân hay chưa ?
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)







